tag:blogger.com,1999:blog-87265095638336926412024-03-14T13:25:31.057+07:00VÔ LƯỢNG CÔNG ĐỨCVô Lượng Công Đức: trang chuyên đề pháp âm, sự kiện, văn hoá, diễn dàn, hình ảnh, video phật giáovoluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.comBlogger246125tag:blogger.com,1999:blog-8726509563833692641.post-91702765522617533072022-12-10T06:33:00.001+07:002022-12-29T09:37:34.543+07:00Vô Lượng Công Đức cúng dường Bộ ảnh Di Đà Tam Tôn mới design 2022 <p></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEith1RDlRQTR8GNbMSFK0lU0UIGEOvOKVIJoV_-jR3tKnl9z1T0P7JzOsZQld4vT93Mm-mknWje05y5u12vrBA2oSoWHB4GGaQVMlfreD3CSaSY0b0w6tk-p8kDk2CHezHrMd6_2AJnbAyn3iLzj5TxGLq1SAQ_BJNuRT4cb9nTlkqC-GtoI7NM6NI7QQ/s591/Di%20Da%2040b_Tam%20The%20Ngang_Small.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="394" data-original-width="591" height="213" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEith1RDlRQTR8GNbMSFK0lU0UIGEOvOKVIJoV_-jR3tKnl9z1T0P7JzOsZQld4vT93Mm-mknWje05y5u12vrBA2oSoWHB4GGaQVMlfreD3CSaSY0b0w6tk-p8kDk2CHezHrMd6_2AJnbAyn3iLzj5TxGLq1SAQ_BJNuRT4cb9nTlkqC-GtoI7NM6NI7QQ/s320/Di%20Da%2040b_Tam%20The%20Ngang_Small.jpg" width="320" /></a></div><b><div style="text-align: justify;"><b>Hôm nay, ngày 17 tháng 11 năm Nhâm Dần - Phật lịch 2566 (10/12/2022), là ngày vía Đức Từ phụ A Di Đà Phật. Để kỷ niệm ngày vía này, đã lâu trang Vô Lượng Công Đức đã ngưng không còn design hình ảnh chư Phật và Bồ tát nữa. Nhân duyên lại được đón nhận, Nguyên Điền phát tâm cúng dường bộ ảnh này dến tất cả quý vị hữu duyên hòng bòn mót công đức cho đời sau được sinh về Thế giới của Đức Phật A Di Đà.</b></div></b><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Cùng với nguyện ước đó, chúng tôi thiết tha mong rằng quý vị nào có được thiện căn, phước đức, nhân duyên gặp được bộ ảnh này cũng phát Bồ đề tâm cùng chúng tôi và tùy theo khả năng của mình mà chia sẻ cúng dường bòn mót công đức. Chớ nên bán hình Phật mà đánh mất thiện duyên.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Thành kính cầu nguyện Tam Bảo chứng minh. Nguyện cầu cho tất cả quý vị cùng chúng tôi cho dù có sinh về chỗ nào cũng được gặp chư Phật làm quyến thuộc, được cùng chư Bồ tát kết thiện duyên, dẫu có đi cùng pháp giới Nhơn, Thiên cũng viên thành Phật đạo.</div><div style="text-align: justify;">Nam mô Công đức lâm Bồ tát.</div><i><div style="text-align: justify;"><i><b>Nguyên Điền cẩn bái</b></i></div></i><div style="text-align: justify;">---------------------</div><div style="text-align: justify;">Thông tin về hình ảnh: Hai tấm ảnh đăng kèm theo bài viết này là ảnh để xem, size rất nhỏ, không dùng cho in ấn được. Quý vị cần in ấn cúng dường hoặc chia sẻ, sử dụng, hãy kéo xuống dưới bấm vào Download để tải size lớn:</div><div style="text-align: justify;">Kích thước của hai ảnh: Rộng 90cm, cao 60cm, độ phân giải 300 pixel</div><p></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhKqKWnmluUiWzbu0q-V1GtsTrIztAgyidByLBRip-X1JLJBF19z_r0FXAhsaD_NOtLyEZ77gHRrz6hphkWcf6OWAsXCQI-s6ilfpXs7PkCgMv9HaT77jx77mqUDNpQXLJGBxsjW9xr_dbWKCoTmcQeZz2dCgkquWIv-aw6VkVY21VOjoog_PxtUZJRig/s591/Di%20Da%2040b_Tam%20The_Small.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="591" data-original-width="394" height="640" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhKqKWnmluUiWzbu0q-V1GtsTrIztAgyidByLBRip-X1JLJBF19z_r0FXAhsaD_NOtLyEZ77gHRrz6hphkWcf6OWAsXCQI-s6ilfpXs7PkCgMv9HaT77jx77mqUDNpQXLJGBxsjW9xr_dbWKCoTmcQeZz2dCgkquWIv-aw6VkVY21VOjoog_PxtUZJRig/w426-h640/Di%20Da%2040b_Tam%20The_Small.jpg" width="426" /></a></div><div style="text-align: justify;"></div><span style="font-size: large;"><b><a href="https://www.mediafire.com/view/lo3auxryyf3oy7g/Di_Da_40b_Tam_The.jpg/file" target="_blank">Download ảnh đứng này</a></b></span></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiNyWvCo6snwzoJ1u9EBq3kUhDJ5ZqjEwgYx7TgDssSuogwYH3yq4dak04acD8_LxZKKXSsLQ4FVB9J-3LdhBAubdDuB-9RfrPjcK7c2p5754kSubKNKFKjG3XwvKm-sGYdwjImZ9JuRQwEp7A3eBFC25KQz-saB_F5l1Tqh3Jv-ssCRD6kKohkEWUBCg/s591/Di%20Da%2040b_Tam%20The%20Ngang_Small.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="394" data-original-width="591" height="426" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiNyWvCo6snwzoJ1u9EBq3kUhDJ5ZqjEwgYx7TgDssSuogwYH3yq4dak04acD8_LxZKKXSsLQ4FVB9J-3LdhBAubdDuB-9RfrPjcK7c2p5754kSubKNKFKjG3XwvKm-sGYdwjImZ9JuRQwEp7A3eBFC25KQz-saB_F5l1Tqh3Jv-ssCRD6kKohkEWUBCg/w640-h426/Di%20Da%2040b_Tam%20The%20Ngang_Small.jpg" width="640" /></a></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><b style="font-size: x-large;"><a href="https://www.mediafire.com/view/v2uc7tl0qrm17y8/Di_Da_40b_Tam_The_Ngang.jpg/file" target="_blank">Download ảnh ngang này</a></b></div><div><b style="font-size: x-large;"><br /></b></div><br /><p><br /></p>voluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8726509563833692641.post-4291229236792814962022-06-26T10:00:00.001+07:002022-06-26T10:00:03.001+07:00Ứng dụng tinh thần Kinh Địa Tạng cho người phụ nữ khi mang thai<div style="text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhJx9a0TL14QAreZ0PnvTn7fRd_WlLkGTtZSE-1VZEmSgn4AatnVOabRtfHzZ40o7z1FteGTR9ZR9agtYUVxDYTp_ZnSuOp2F3m_yutDJUnW4nqSQsNcgasyKB0Pp4ABouNqrRh90IUBb6cJPRiMq_VzX0WYQ9RpB6MnFXCLYYuXMRgk5r9wJ9QTmAM3A/s800/Me-va-em-be.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="482" data-original-width="800" height="193" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhJx9a0TL14QAreZ0PnvTn7fRd_WlLkGTtZSE-1VZEmSgn4AatnVOabRtfHzZ40o7z1FteGTR9ZR9agtYUVxDYTp_ZnSuOp2F3m_yutDJUnW4nqSQsNcgasyKB0Pp4ABouNqrRh90IUBb6cJPRiMq_VzX0WYQ9RpB6MnFXCLYYuXMRgk5r9wJ9QTmAM3A/s320/Me-va-em-be.jpg" width="320" /></a></div><b>VLCĐ: Ứng dụng tinh thần Kinh Địa Tạng cho người phụ nữ khi mang thai: Trong kinh, đức Phật dạy: Quan hệ gia đình vô cùng mật thiết, chắc chắn phải có nhân duyên sâu sắc. Không phải tụ chung một cách ngẫu nhiên. Đức Phật đã phân chia nhân duyên phức tạp đó thành bốn loại, đó là: Báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ, vì thế mà quy tụ thành người một gia đình. Cha con, anh chị em, không thể tách rời quan hệ này.</b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Kinh văn, quyển chú giải, trang 56:“Phục thứ Phổ Quảng, nhược vị lai thế trung, Diêm Phù Đề nội, Sát Lợi Bà la môn, trưởng giả cư sĩ, nhất thiết nhân đẳng.Cập dị tánh chủng tộc, hữu tân sản giả, hoặc nam hoặc nữ, thất nhật chi trung, tảo dữ độc tụng, thử bất tư nghì kinh điển.Cánh vi niệm Bồ Tát danh, khả mãn vạn thiên biến, thị tân sanh tử, hoặc nam hoặc nữ, túc hữu ương báo, tiện đắc giải thoát. An lạc dị dưỡng, thọ mạng tăng trưởng, nhược thị thừa phúc sanh giả, chuyển tăng an lạc, cập dữ thọ mạng.”</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Nguyên lý thai sanh</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Đoạn kinh trên nói về lúc sinh nở, cần phải tu phước như thế nào? Y học hiện đại phát triển hơn xưa rất nhiều, việc sinh nở cũng an toàn yên tâm hơn ngày xưa. Thời xưa, đặc biệt ở nông thôn, những khu vực lạc hậu kém phát triển, việc sinh nở thực sự liên quan đến mạng sống con người, cho nên đức Phật đặc biệt quan tâm nhắc nhở, dạy chúng ta phải tu học thế nào, làm sao để đảm bảo bình yên cho cả mẹ lẫn con.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"></div><blockquote><div style="text-align: justify;"> Trong kinh, đức Phật dạy: Quan hệ gia đình vô cùng mật thiết, chắc chắn phải có nhân duyên sâu sắc. Không phải tụ chung một cách ngẫu nhiên. Đức Phật đã phân chia nhân duyên phức tạp đó thành bốn loại, đó là: Báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ, vì thế mà quy tụ thành người một gia đình. Cha con, anh chị em, không thể tách rời quan hệ này.</div><div style="text-align: justify;"></div></blockquote><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Ngạn ngữ thường nói: “Không phải oan gia không chung nhà”, câu nói này rất có lý. Tuy nhiên sau khi giác ngộ, người cả nhà liền trở thành quyến thuộc pháp lữ, thật không gì thù thắng hơn. Còn không giác ngộ, thì gia đình sẽ liên tiếp xảy ra ân oán xen kẽ báo ứng lẫn nhau. Cả nhà chịu khổ sở không nói ra được. Dù sao, trả ơn thì hiếm, báo oán thì nhiều; trả nợ thì ít, đòi nợ thì nhiều. Cho nên cả đời làm người trên thế gian, thường xuyên thấy không hài lòng như ý.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Quả báo luôn bình đẳng, bất kể sang hèn giàu nghèo. Kinh đã ví dụ, Sát lợi là hoàng tộc của Ấn Độ xưa; Bà la môn cũng là giai cấp tôn giáo có địa vị cao trong xã hội bấy giờ; trưởng giả cư sĩ là người có nhiều phước báu; tiếp theo là tất cả mọi người và các họ tộc khác. Phạm vi bao gồm rất rộng, trong đó có đầy đủ bốn giai cấp trên.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Người Á đông thường nói “Phú quý bần tiện, bất kể thân phận thế nào, không luận địa vị ra sao, việc sinh nở cũng không thể tránh khỏi”. Hơn nữa, đau đớn trong sinh nở là hoàn toàn bình đẳng. Người giàu được chăm sóc có phần đầy đủ hơn, người nghèo khó được chăm sóc kém hơn. Nói cho cùng, đau đớn không thể nào tránh được.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Phương pháp dạy bảo thai nhi</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Phật giáo hướng dẫn chúng ta phương pháp, trong vòng bảy ngày, sớm đọc tụng bộ kinh bất khả tư nghì này. Tốt nhất là đọc sớm. Khi biết có thai liền nên đọc, mỗi ngày đọc tụng một bộ kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, hoặc niệm nghìn câu danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng. Cần phải dùng tâm chân thành cung kính để tụng niệm thì phước báu sẽ vô cùng to lớn.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Cho dù đứa bé trong thai đến gia đình để báo oán, là oan gia trái chủ, nhưng vì chúng ta chăm sóc đứa bé như thế thì oan kết cũng sẽ được hóa giải. Do chúng ta có ân với nó thì nó không còn báo oán nữa mà chuyển thành báo ân.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Chuyển biến phải ngay từ thời gian đầu. Kinh nhấn mạnh, chậm nhất cũng phải vào bảy ngày trước khi sinh. Đương nhiên càng sớm càng tốt. Khi chúng ta hiểu được đạo lý này, biết được phương pháp này, tốt nhất đọc tụng ngay khi biết mình có thai, y theo phương pháp mà tu hành.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Đối với người làm mẹ, cần tâm bình khí hòa, chân thành, cung kính, thanh tịnh, bình đẳng, vì khởi tâm động niệm sẽ ảnh hưởng đến thai nhi. Điều này, nếu nói theo lý luận khoa học hiện đại thì càng dễ hiểu hơn. Đây thuộc về hiện tượng vận động của sóng.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Sơ luận sự vận hành của sóng</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Phật pháp nói, cũng như thế giới Tây Phương Cực Lạc, tất cả pháp đều phát ra ánh sáng, không những con người có thể phóng quang mà vạn vật cũng phóng quang. Cực Lạc thế giới ánh sáng soi khắp, ánh sáng thế giới chúng ta cũng phóng quang rọi khắp. Giả sử tất cả mọi người trên thế gian không có ánh sáng soi khắp, vạn vật không như Cực Lạc Thế Giới được ánh sáng chiếu khắp như thế, thì “Nhất chân pháp giới” trở thành mâu thuẫn. Làm gì có chuyện nơi này đặc biệt sáng hơn, còn nơi khác lại không có ánh sáng, như vậy làm sao giải thích cho thông suốt? “Nhất chân pháp giới” là bao gồm cả pháp giới của chúng ta, không có đạo lý rời khỏi pháp giới này.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Đọc đoạn kinh, chúng ta phải hiểu rằng, nơi có ánh sáng soi khắp thì mỗi người đều có thể cảm nhận được. Nơi chúng ta cũng có ánh sáng soi khắp nhưng chỉ vì chúng ta không có cảm giác mà thôi. Tại sao chúng ta không có cảm giác? Vì tâm không thanh tịnh, tâm quá loạn, vọng niệm quá nhiều nên không thể cảm nhận được cảnh giới như thế. Thế gian này cùng Cực Lạc thế giới và Hoa Tạng thế giới không hề khác biệt. Nói theo vật lý học hiện đại càng dễ lý giải hơn. Ánh sáng là hiện tượng hoạt động của sóng, chỉ cần có hoạt động là có sóng. Khoa học hiện tại gọi là sóng, nhà Phật gọi là ánh sáng. Cho nên ánh sáng chính là sóng, bao gồm tất cả vật chất. Vật chất đã hình thành như thế nào? Phân tích đến tận cùng, vật chất là nguyên tử proton, neutron. Những hạt cơ bản như thế đều luôn chuyển động. Đức Phật không cần có những thiết bị khoa học hiện đại, ngài vẫn nhìn thấy rõ ràng hiện tượng sóng và hạt mà những thiết bị tiên tiến nhất hiện nay chưa thể quan sát được. Ngài thuyết giảng một cách uyển chuyển tường tận, nói ra thực tướng của sự vật, nhưng chúng ta phần lớn không tin, không chấp nhận, dù cách nói của đức Phật rất vi diệu, sâu sắc, gọi là thiện xảo, là phương tiện khéo léo.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Khi đức Phật nói về hiện tượng vật chất đã nói rõ bốn nguyên tắc “Đất nước gió lửa”. Đất nước gió lửa là vật chất căn bản, là hạt cơ bản mà khoa học hiện nay đang nói. Đất là tướng trạng của vật chất, cái con người có thể nhìn thấy. Đất đại diện cho vật thể. Mắt trần chúng ta không thể nhìn thấy hạt. Dưới kính hiển vi có độ phân giải cao liền nhìn thấy được tướng trạng của hạt này. Đức Phật không cần thiết bị gì cả, mắt của ngài “Ngũ nhãn viên minh”, nhạy bén hơn chúng ta rất nhiều, có thể thấy thứ mà phàm phu chúng ta không thể nhìn thấy.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Thế thì vật chất cơ bản được cấu thành như thế nào? Luôn mang nguồn điện, cho nên, lửa, hỏa đại, chính là điện dương; nước, thủy đại là điện âm, ngôn ngữ chúng ta dùng hiện nay là nhiệt độ và ẩm độ. Còn gió là trạng thái hoạt động, không đứng yên. Vật chất cơ bản là hết thảy hiện tượng của tất cả vật chất, bao gồm tổ chức tế bào trong con người. Như vậy thử nghĩ xem, làm gì có hiện tượng đứng yên. Hạt cơ bản luôn luôn hoạt động, động sinh ra sóng. Lý thuyết và thực tế đều chứng minh năng lượng của sóng lan rộng tận hư không biến pháp giới. Trời đất vạn vật, chúng sanh đông như thế, khởi tâm động niệm, thì sóng đó càng hiển thị rõ ràng, phạm vị ảnh hưởng càng rộng hơn, trong khi sóng của vật chất còn tương đối nhỏ hẹp. Hiểu được điều này, chúng ta liền nhận ra trong không gian cuộc sống của chúng ta, sóng hoạt động phức tạp dường nào.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Kinh Phật dạy, với thiện niệm, thiện tâm, sóng phát ra ổn định nhẹ nhàng, sau khi tiếp xúc được với sóng này, con người sanh tâm hoan hỷ, có cảm giác dịu dàng thoải mái. Còn khởi ác n<a href="http://voluongcongduc.com/thuong-qua-di-nhung-chu-tieu-moi-cao-dau.html">i</a>ệm, ác tâm, sóng động rất mãnh liệt, phát ra giao động mạnh, tiếp xúc với sóng này sẽ thấy khó chịu cả người. Ngày nay, hiện tượng như thế gọi là từ trường. Người luyện khí công ở Trung Quốc cũng cùng một trạng thái như thế, cho nên gọi là “khí” cũng được. Phật pháp gọi là ánh sáng, sóng động, từ trường, cùng một trạng thái.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Do đây có thể biết, khi thần thức đến đầu thai, nó có ý niệm, có sóng, cho nên khởi tâm động niệm và hành động của người mẹ đều ảnh hưởng đến thai. Ngày xưa, Trung Quốc luôn chú ý đến thai giáo. Thai giáo trong sách cổ ghi lại một số nguyên lý, nhưng nói không tường tận chi tiết, không được thấu đáo, đọc xong còn nửa tin nửa ngờ, không thấy được tính nghiêm trọng của ảnh hưởng này, và cũng khó hiểu.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Hôm nay chúng ta hiểu rõ chân tướng sự thật về sóng, thì sẽ biết được mỗi khởi tâm động niệm đều ảnh hưởng đến thai nhi rất nhiều. Nên trong thời gian người mẹ mang thai, nếu khởi tâm động niệm thiện, thanh tịnh thì thai nhi sẽ nhận được rất nhiều lợi lạc.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Người nào cũng mong muốn con cái mình ngoan giỏi, là con thảo cháu hiền. Vậy làm thế nào dạy chúng? Ngay trong lúc mang thai, chính bản thân chúng ta phải thực hành tận hiếu thảo, sóng hiếu thảo đó sẽ ảnh hưởng đến thai nhi. Chúng ta tu thanh tịnh, tu phước, như vậy mới thật sự gieo cho thai nhi hạt giống tốt về sau. Đạo lý này có thật, không có gì mê tín cả.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Vì sao đức Phật khuyên chúng ta đọc bộ kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện?</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Vì bộ kinh này là hiếu kinh, tinh thần của bộ kinh có thể tóm lược thành bốn chữ “Hiếu thân tôn sư”. “Hiếu thân tôn sư” là cương lĩnh dạy học của thế xuất thế gian, cũng là căn bản nền tảng.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Chúng ta tu học Phật pháp Đại thừa bắt đầu từ đâu? Chính từ Bồ Tát Địa Tạng. Địa là tâm địa, tạng là bảo tàng. Bảo tàng quý giá trong tâm địa là trí tuệ vô lượng, phước đức vô lượng và khả năng vô lượng. Bảo tàng hạt châu vốn có trong tự tánh của chúng ta, vì thế mà gọi là Địa Tạng. Bảo tàng chôn dưới lòng đất, cũng như vàng bạc, khoáng sản, nếu không biết khai thác thì vẫn nằm sâu dưới đất, tuy có nhưng không thể hưởng dùng.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Chúng ta cần phải biết khai thác bảo tàng trong tự tánh, bằng cách dùng đến tánh đức, tức là lấy đức tính làm công cụ tương ứng với bảo tàng thì mới khai thác được. Thù thắng nhất trong tánh đức chính là hiếu và kính. Cho nên khi tu học Phật pháp Đại thừa, phải bắt đầu từ Bồ tát Địa Tạng. Học hiếu đạo trước, trong hiếu xây dựng sư đạo. Phật pháp là sư đạo được xây dựng trên nền tảng hiếu đạo.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Những năm trước đây, tôi gặp một số pháp sư đến hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Khi tiễn họ, tôi đã khuyên họ đến Hoa kỳ đừng xây chùa chiền trước, mà hãy xây dựng từ đường, xiển dương hiếu đạo. Vì sao? Vì nếu không có hiếu đạo thì Phật pháp không thể bám rễ, đạo tràng của Phật giáo không thể mạnh được.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Lấy hiếu đạo làm nền tảng giáo dục</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Phật pháp là sư đạo, cho nên xây dựng từ đường tốt hơn. Từ đường để hoằng dương Phật pháp, có hiệu quả lớn hơn xây dựng tự viện. Nhìn vào hình ảnh chùa chiền, người ta biết ngay là Phật giáo, người không tin Phật nhất định không vào, duyên này liền bị cắt đứt. Nhưng nếu xây dựng từ đường, hàng năm cúng giỗ, người Trung Quốc bất kể theo tôn giáo nào vẫn không thể quên tổ tiên. Khi họ đến tham gia giỗ tổ, chúng ta có thể giảng thêm về Phật pháp, có thể giảng phương thức dạy học truyền thống Trung Quốc, dần dần cảm hóa đại chúng đến dự. Cho nên lấy từ đường làm đạo tràng lợi lạc hơn chùa chiền tự viện rất nhiều.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Rất tiếc các vị pháp sư đó không tiếp nhận kiến nghị của tôi. Cho nên tại Hoa Kỳ, người Nhật, người Trung Quốc đã xây rất nhiều đạo tràng, chủ yếu cũng chỉ độ cho người Trung Quốc. Thực tế người nước ngoài tại địa phương rất ít và hiếm khi vào, nguyên nhân cũng vì họ không tin Phật. Làm như vậy là chúng ta đã đảo ngược ngọn nguồn. Đến nay, tuy đã trải qua thời gian hơn một trăm năm, nhưng tại Hoa kỳ, Phật giáo truyền vào cũng chưa bám rễ được, chưa hoằng pháp thật hiệu quả, rất nhiều người chưa biết đến Phật pháp.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Khi tôi giảng kinh hoằng pháp tại Hoa kỳ, nhắc nhở mọi người rằng chúng ta chưa đủ phước báu, lực lượng còn mỏng manh, tôi đề nghị hiện đại hóa và bản địa hóa Phật giáo. Khi xây dựng đạo tràng tại Hoa Kỳ, hình thức của đạo tràng nhất định phải theo hình thức của Hoa Kỳ. Không nên bưng nguyên xi hình thức cung điện kiểu Trung Quốc đến, người Mỹ nhìn thấy biết ngay là hàng ngoại, văn hóa ngoại lai, liền sinh tâm bài xích, và không thích đi vào. Xây dựng đạo tràng tại Hoa Kỳ, nên xây dựng theo hình thức như tòa Bạch ốc, hay kiểu Quốc hội..., người Mỹ cảm nhận như cảm nhận văn hóa mình, họ sẽ bị thu hút vào.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Còn hình tướng Phật Bồ Tát trong đạo tràng thì tạc khắc theo hình dáng người Mỹ. Như thế mới có thể độ được người nước họ. Hai nghìn năm trước đây, Phật pháp truyền vào Trung Quốc, những vị cao tăng Ấn Độ đã rất thông minh khi dựng tượng Phật Bồ Tát theo hình dáng người Trung Quốc, xây đạo tràng cũng theo hình thức của Trung Quốc.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Người Trung Quốc rất tôn kính hoàng đế và nơi ở của hoàng đế. Lúc đó các vị cao tăng Ấn Độ đã xây dựng đạo tràng theo hình thức cung đình, bá tánh nhìn thấy đều rất hoan hỷ. Mấy ai có phước duyên được vào tham quan hoàng cung một lần trong đời. Thế nên chùa chiền tự viện được xây dựng cũng không khác hoàng cung bao nhiêu, cho nên dân chúng nhất định vào thăm. Đó là trang thiết bị phần cứng. Còn nội dung bên trong phải bắt đầu từ “hiếu kính”.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Phật giáo truyền vào Trung Quốc, tại sao được triều đình hoan nghênh nồng nhiệt như thế? Chính vì nội dung dạy học. Phần lý lẽ căn bản nhất hoàn toàn phù hợp với lý lẽ của thánh hiền Trung Quốc xưa. Cách dạy của nhà Nho cũng xây dựng trên nền tảng hiếu đạo. Phật pháp tương tự, thậm chí Phật pháp còn nói rõ hơn, chi tiết hơn Nho giáo. Do đó Phật pháp truyền vào Trung Quốc liền được triều đình hoan nghênh ủng hộ, thành công ngay thời điểm đó. Đối với xã hội, quốc gia, nhân dân, thực sự đã mang lại lợi ích và an lạc, tuyệt nhiên không phải là mê tín.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Đối tượng tu học Phật pháp từ lịch sử Trung Quốc đều là giai cấp sĩ đại phu. Thời kỳ đó, giai cấp sĩ phu tương đương thành phần tri thức ngày nay. Họ không phải là người bình thường mà là những người thật sự có học vấn, có đạo đức. Họ tu học, tiếp nhận Phật pháp, tín ngưỡng Phật Pháp rồi y giáo phụng hành, vì thế đạt hiệu quả trong việc thay đổi phong tục tập quán, dẫn dắt tầng lớp bình dân học và hành theo tập quán lương thiện.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Còn hiện nay, chùa chiền tự viện đã biến chất, không còn dạy học. Ngày xưa tự viện là nhà trường, là môi trường dạy học, bây giờ tự viện trở thành môi trường siêu độ vong linh. Hoàn toàn thay đổi, biến chất quá nặng.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Nhìn nhận về Phật sự cầu siêu trong nhà Phật</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Thực ra việc cầu siêu cho vong linh vốn không có trong Phật giáo. Vậy tại sao diễn biến thành hiện tượng như thế này?</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Thời gian khi tôi bắt đầu học Phật, gần gũi pháp sư Đạo An, lúc đó chúng tôi cùng nhau tổ chức lớp nghiên cứu Phật học cho đại học. Tôi đã thỉnh giáo pháp sư Đạo An. Ngài từ bi dạy. Ngài nói duyên khởi vấn đề này có thể bắt đầu từ năm Khai Nguyên nhà Đường, tức thời đại của Đường Minh Hoàng. Cuối đời, Đường Minh Hoàng vì sủng ái Dương quý phi nên đã bị triều đình lên án, dẫn đến An Lộc Sơn tạo phản, cơ hồ mất nước. Rất may có tể tướng Quách Tử Nghi dẹp yên cuộc động loạn, nhưng quân dân chết rất nhiều. Sau khi dẹp yên cuộc động loạn, triều đình tại mỗi chiến trường đều cho xây dựng một ngôi chùa gọi là Khai Nguyên tự. Chùa Khai Nguyên xuất hiện như thế. Mục đích để truy niệm quân dân tử nạn, chùa đã thỉnh mời các pháp sư tụng kinh siêu độ, gọi là pháp hội truy điệu.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Triều đình quốc gia khởi xướng truy điệu vong hồn người tử nạn, từ đó dân gian bắt chước, cứ trong dân chúng có người qua đời đều thỉnh mời pháp sư làm Phật sự cầu siêu. Việc cầu siêu thời đó chỉ là việc phụ thuộc, còn việc chính yếu trong đạo tràng vẫn là thuyết pháp giảng kinh, hướng dẫn đại chúng tu hành. Tuy nhiên việc phụ này bây giờ đã biến thành việc chính thức của chùa chiền, còn việc chính thức thì lại biến mất, không thấy nữa. Nghề tay trái biến thành nghề chính, đúng là điên đảo. Đó là lý do hình thành xu hướng mê tín. Sự thực của việc thay đổi diễn biến, chúng ta cần phải hiểu.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Lý luận, phương pháp, nguyên lý và nguyên tắc cầu siêu đều có viết trên kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện. Người cầu siêu làm sao có thể chân thật cầu siêu được cho vong linh siêu thoát khỏi các cõi ác, sinh lên cõi trời, hưởng thụ phước báu. Kinh nói rất rõ ràng. Bản thân người cầu siêu cần phải chứng quả. Nếu bản thân không nâng cao được cảnh giới của mình, không thể chứng quả thì lợi lạc vong linh nhận được cũng rất giới hạn.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Bài học hiếu đạo trong kinh Địa Tạng</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Kinh đưa ra ví dụ, nữ Quang Mục là một cô gái có hiếu, biết mẹ mình trong lúc sinh thời tạo nhiều ác nghiệp, cô hiểu Phật pháp, áp dụng lời Phật dạy. Những nghiệp mẹ cô đã tạo trong đời, nhất định phải đọa địa ngục, địa ngục dễ vào nhưng thật khó ra. Cô muốn cứu mẹ nên đến cầu Phật. Đức Phật dạy cô dùng phương pháp niệm Phật. Ngoài ra không còn cách nào khác.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Bà la môn nữ dùng phương pháp niệm Phật, Quang Mục nữ cũng dùng phương pháp niệm Phật. Ba la môn nữ chỉ là phàm phu nhưng vì muốn cứu mẹ nên trong một ngày một đêm, tinh tiến niệm Phật rất thành khẩn, đúng pháp, đạt nhất tâm bất loạn, liền chứng quả. Lúc ở trong thiền định, cô đến địa ngục, quỷ vương trong địa ngục nhìn thấy liền chấp tay gọi cô là Bồ tát. Chúng ta thấy, từ phàm phu, tu hành một ngày một đêm đã siêu phàm nhập thánh.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Quỷ vương chào: “Bạch Bồ tát, ngài đến đây có việc gì?”. Cô hỏi: “Đây là nơi nào?” Quỷ vương trả lời địa ngục. Người vào địa ngục chỉ có hai đối tượng, một là theo nghiệp lực, đến chịu nghiệp báo; hai là bồ tát đến theo nguyện lực. Ngoài hai đối tượng này không ai có thể đến được địa ngục. Sau đó cô hỏi quỷ vương về tung tích mẹ mình. Quỷ vương cho biết, mẹ của cô ba ngày trước đã sanh về cõi trời Đao Lợi. Không những mẹ cô mà những người chịu tội chung với mẹ cô cũng đều được sanh về cõi trời Đao Lợi. Họ nghe nói, bà có người con gái hiếu thảo tu phước cho bà, cúng dường đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai. Nhờ phước báu này, bà ta được vãng sanh.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Nếu không phải vì người mẹ tạo tội nghiệp đọa địa ngục thì nữ Quang Mục cả đời không thể đạt được cảnh giới như thế, vì ngày thường niệm Phật hay tán loạn, làm sao có thể đạt được nhất tâm. Với mong muốn cứu mẹ, cô đã cố hết sức trong một ngày đêm thay đổi hẳn cảnh giới của mình. Nữ Quang Mục có thể chuyển phàm thành thánh do trợ duyên của mẹ. Người mẹ được vãng sanh cũng vì lý lẽ này. Một mình nữ Quang Mục chỉ cầu siêu qua hình thức sẽ không có hiệu quả. Chính mình không có phước báu thì người được cầu siêu cũng không nhận lợi ích gì.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Công phu tu tập trước tiên ở chính mình</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Pháp giới ở đường ác, và pháp giới ở cõi người chúng ta không khác nhau. Cũng như trong một gia đình, đứa con được giáo dục đàng hoàng, ra xã hội, đều được mọi người kính trọng, làm đến tổng thống, bộ trưởng, cha mẹ đi đến đâu cũng nhận được sự tôn kính của người khác. Còn bản thân mình không thành tựu, cha mẹ chúng ta làm sao được quỷ thần cung kính.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Kinh nói vấn đề cầu siêu, bảy phần công đức thì chính mình được sáu phần. Người được cầu siêu chỉ nhận một phần. Bản thân niệm Phật một ngày một đêm đạt đến nhất tâm bất loạn, công đức của bản thân là chính, người mẹ chỉ hưởng một phần, được một ít phước, sanh về cõi trời Đao Lợi. Vì vậy nếu bản thân không thể thành tựu, người thân sẽ không có được phước báu như thế.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Những lễ cúng bố thí bình thường chỉ là mời họ đến ăn cơm, như cúng diêm khẩu mông sơn. Một bữa ăn no chỉ qua được cơn đói nhất thời chứ không thể giúp họ thoát khỏi các đường ác. Chân thật muốn thoát khỏi đường ác, thì trong Phật sự cầu siêu độ này, những vị pháp sư làm lễ cầu siêu phải tùy văn nhập quán. Sau khi hoàn tất khóa lễ cầu siêu, bản thân pháp sư phải thật sự trở thành Bồ tát, cảnh giới của pháp sư được nâng cao ngay thì hiệu quả cầu siêu sẽ vô cùng lớn, vong linh siêu độ chắc chắn được sanh cõi trời. Các vị pháp sư phải tụng niệm nghiêm túc, tu trì bằng tâm thanh tịnh, bình đẳng. Chính pháp sư phải đạt siêu phàm nhập thánh, từ phàm phu thăng tiến đến Bồ tát. Còn sau khi hoàn tất Phật sự, vẫn còn là phàm phu sẽ không có thành tựu cho vong linh. Chúng ta cần hiểu thấu vấn đề này.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Do đó khi có Phật sự cầu siêu, hành giả phải nghiêm túc. Niệm tụng kinh văn, xưng tán những bài kệ, nhất định phải khế nhập vào cảnh giới đó. Sau khi nhập vào cảnh giới thì không được thối chuyển, có như vậy công đức mới vô lượng vô biên. Người nhận phước báu sẽ không thể nào đếm được. Không nên làm qua loa tắc trách cho xong chuyện. Cầu siêu không thể cho giá, nói thách. Đó là cách làm ăn mua bán, không còn gì gọi là công đức nữa. Chạy theo hình thức như thế hoàn toàn sai.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Cầu siêu không những siêu độ cho vong hồn mà còn siêu độ cho cả chính mình. Khi chính mình được siêu thì vong linh cũng theo mình mà siêu độ. Bản thân chưa có cách siêu độ chính mình thì chắc chắn không thể siêu độ được vong linh. Đây chính là điều kinh Phật thường nói. Chúng tôi thường xuyên đọc lại kinh, nữ Quang Mục thật sự độ được bản thân, Bà la môn nữ cũng độ được bản thân. Sau khi bản thân được độ mới có thể độ được người khác. Những vong linh nhờ vào phước đức của người siêu độ mà vãng sanh. Nhưng vãng sanh cao nhất trong trường hợp này cũng chỉ đến cõi trời Đao Lợi. Muốn cao hơn cõi trời Đao Lợi, nhất định phải nhờ công phu tu hành của chính mình, người khác không thể giúp được.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Ở Trung Quốc trước đây, lễ cầu siêu quy mô lớn nhất là khi Lương Vũ Đế siêu độ hoàng hậu của mình. Người chủ trì pháp hội cầu siêu là pháp sư Bảo Chí, một cao tăng đương thời. Sau này chúng ta biết, pháp sư Bảo Chí là hóa thân của Bồ tát Quan Thế Âm. Đích thân Bồ tát Quan Thế Âm chủ trì pháp hội cầu siêu, sau này lưu truyền lại quyển Lương Hoàng Sám.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Như vậy, Bồ Tát Quan Thế Âm chủ trì pháp hội siêu độ hoàng hậu của Lương Võ Đế nhưng hoàng hậu cũng chỉ sanh đến cõi trời Đao Lợi. Giả sử chư Phật Như Lai chủ trì cũng như thế thôi. Vong linh dựa vào phước báu tha lực của người khác chỉ có thể đạt được cảnh giới nhất định. Muốn có cảnh giới cao hơn phải dựa vào tu hành của mình. Chính mình không công phu tu tập thì không xong. Vì thế khi tu hành, chúng ta phải chân thật chuyển biến được cảnh giới, thật sự có kết quả thì Phật sự cầu siêu này có thể không cần hình thức gì cả.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Trong hồi ký Ảnh Trần, lão pháp sư Đàm Hư nói, năm xưa ngài ở cùng vài người bạn, chuyên nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm, “tám năm song cửa học Lăng Nghiêm”. Lúc đó ngài đang là cư sĩ, mỗi ngày còn phải làm việc, bôn ba vì cuộc sống nên không thể hoàn toàn chuyên tâm. Nhưng thời gian tám năm chỉ đọc một bộ kinh, ít nhiều cũng chứng tỏ ngài có định lực. Nếu trong tám năm đọc hàng chục bộ kinh sẽ không hiệu quả. Tám năm ròng tham cứu, tâm định trên một bộ kinh, oan gia trái chủ của ngài đã đến nhờ ngài siêu độ. Khi nhìn thấy những vong hồn đến, ngài sợ hãi, e rằng những vong hồn ấy đến gây phiền phức. Nhưng oan gia trái chủ bước tới quỳ dưới chân ngài, cầu ngài siêu độ, tâm của ngài liền an ngay vì biết họ không phải đến gây phiền phức. Họ nói chỉ cần ngài đồng ý là có thể siêu được. Ngài liền gật đầu đồng ý, lập tức những vong hồn đáp trên đầu gối và vai ngài để vãng sanh. Hoàn toàn không có nghi thức gì cả.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Khi bản thân đạt được cảnh giới này, có công phu viên mãn, vong linh liền nương nhờ phước báu của chúng ta. Chỉ cần chúng ta đồng ý là được. Cho nên cần phải nhớ, siêu độ vong linh hoàn toàn dựa vào đức hạnh và công phu tu hành của chính mình.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Chúng ta hiểu rõ lý lẽ này, hiểu thấu cảm ứng của tâm đ<a href="http://voluongcongduc.com/gieo-duyen-dao-phat-qua-con-duong-am-nhac.html">i</a>ện thì chính từ những tư tưởng, khởi tâm động niệm thiện phát ra sóng thuần thiện. Lực của sóng mạnh có thể làm cho tất cả chúng sanh trên thế gian bao gồm quỷ thần, những sóng phát ra ác niệm bị sóng thiện bao phủ và triệt tiêu. Hiệu quả rất thù thắng.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Nói về sinh nở, niệm bộ kinh này có nhiều lợi lạc. Khi niệm những điều nêu trong kinh điển như lý luận, phương pháp, cảnh giới đều hiểu thấu, hành giả càng có lực thù thắng hơn. Vì đã hiểu thấu thì đọc tụng có thể tùy văn nhập quán. Cảnh giới bình thường của chúng ta khó chuyển, tối thiểu trong khi đọc tụng, cảnh giới đó có thể biến chuyển một vài phần. Hiệu quả này đều hiện rõ trong hoạt động của sóng. Hiểu sâu sắc, biết y giáo phụng hành thì lực đó càng không thể nghĩ bàn.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">“Thị tân sanh tử”</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Đứa bé mới chào đời, dù trai hay gái, nếu có ác báo đều có thể được giải trừ. Đời quá khứ đã gây tội nghiệp thì đời này phải đến chịu quả báo. Vì vậy thời điểm mang thai bé là lúc nghiệp chướng rất dễ tiêu trừ. Còn khi em bé lớn lên, sáng tối suốt ngày suy nghĩ lung tung, lúc đó chúng ta muốn tiêu trừ nghiệp chướng cho con cũng khó lòng giúp được. Lúc mang thai, bé hoàn toàn nghe lời, tiêu trừ nghiệp chướng nên thực hiện ngay trong thời gian này.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Thai giáo các thánh hiền xưa đã nói tương tự như vậy. Thai giáo trong Phật pháp cũng thế.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">“An lạc dị dưỡng, thọ mạng tăng trưởng”</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Nghiệp chướng đứa bé được tiêu trừ, tai nạn cũng được tiêu trừ, nó trở nên dễ nuôi, thọ mạng được tăng trưởng. Nếu đứa bé này do thừa phước mà sanh, thì phước báu chúng ta tu trong đời quá khứ, nay được đứa bé đến báo ơn cha mẹ, tạo ơn đức với cha mẹ, như vậy bản thân bé cũng tu phước.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">“Chuyển tăng an lạc, cập dữ thọ mạng”</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Chúng ta dạy dỗ, giúp đỡ bé, phước báu của bé càng nhiều hơn, thọ mạng càng dài hơn. Trong chú giải cũng giải thích rất hoàn hảo vấn đề này.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Xem tiếp kinh văn, quyển trung, trang 59</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">“Phục thứ Phổ Quảng, nhược vị lai thế chúng sanh, ư nguyệt nhất nhật, bát nhật, thập tứ nhật, thập ngũ nhật, thập bát nhật, nhị thập tam, nhị thập tứ, nhị thập bát, nhị thập cửu, nãi chí tam thập nhật, thi chư nhật đẳng, chúng tội kết tập, định kỳ khinh trọng.”</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Đề mục đã nói “trai tụng cảm báo”. Kinh này nói về mười ngày chay, cũng có kinh nói sáu ngày chay, những ngày này đều tính trên lịch âm. Ngày nay, ít người còn dùng lịch âm. Các xã hội trên thế giới hiện nay đều thông dụng lịch dương. Phật nói, trong những ngày này, một số quỷ thần ở trời đất tuần tra trên thế gian. Mỗi một khởi tâm động niệm, lời nói việc làm của chúng sanh, thiện hay ác, quỷ thần đều ghi lại, đều điều tra xem xét, thu thập chứng cứ xác định nặng nhẹ. Đến lúc lâm chung, người không có phước đức lúc này sẽ đến gặp Diêm La Vương, lấy hồ sơ đối chiếu để xác định quả báo nặng nhẹ. Việc như thế, rốt cuộc là có thực hay chỉ là mê tín?</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Có thật. Thế gian chúng ta cũng vậy. Hàng ngày cảnh sát tuần tra, gặp người phạm tội, liền điều tra, thu thập chứng cứ phạm tội, sau đó mới xét xử. Sau khi xác định tội trạng, phải tìm chứng cứ. Công việc khá khó khăn, không dễ dàng. Quỷ thần cũng vậy, đến tìm kiếm chứng cứ, chúng ta không có cách nào che giấu, lừa được người phàm nhưng không thể lừa gạt quỷ thần. Chúng ta ứng dụng khoa học để phá án, xét độ thành thật, nhưng không biết quỷ thần không cần dùng những thiết bị khoa học kỹ thuật này mà lại trực tiếp từ tín hiệu làn sóng phát ra của con người để kết án. Khởi tâm động niệm, quỷ thần đều biết. Người xưa từng nói, “ba thước trên cao có thần minh”, con người chỉ có thể lừa mình dối người nhưng không lừa được quỷ thần.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Kinh Vô Lượng Thọ đã dạy, số chúng sanh ở thế giới Cực Lạc Tây phương quá nhiều, không thể tính đếm được. Những người vãng sanh thế giới Cực Lạc Tây Phương đều đến từ thế giới mười phương chư Phật, đều tu pháp môn niệm Phật mà vãng sanh. Không chỉ có thế giới chúng ta, mười phương tất cả thế giới chư Phật mỗi ngày vãng sanh đến đó, không biết bao nhiều mà kể. Đến thế giới Cực Lạc Phương Tây, đạo lực thần thông của họ hầu như không khác xa đức Phật A Di Đà. Những người đó có thiên nhãn, thiên nhĩ rất lợi hại. Tận hư không biến pháp giới họ đều nhìn thấy. Khởi tâm động niệm của tất cả chúng sanh, họ đều biết cả vì đạt tha tâm thông. Thần thông của quỷ thần còn giới hạn so với khả năng của A La Hán ở Tây Phương. Khả năng của A La Hán có thể biết được năm trăm kiếp của một con người, cụ thể tình trạng từng đời từng kiếp. Trong khi đó quỷ thần chỉ biết được những việc làm của chúng ta gần đây khoảng vài tháng.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Chúng ta muốn vãng sanh thế giới Cực Lạc Tây phương, nếu ý niệm không lành, hành vi không thiện thì dù suốt ngày niệm A Di Đà Phật, mười vạn biến, không bao giờ gián đoạn vẫn không thể vãng sanh.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">HT. TỊNH KHÔNG giảng</div><div style="text-align: justify;">Trích lục từ Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện</div><div style="text-align: justify;">Biên dịch: Nhạo Minh cư sĩ</div><div style="text-align: justify;">Biên tập: PT. Giác Minh Duyên</div><div style="text-align: justify;">Giảng tại Tịnh tông Học hội Singapore, tháng 05 - 1998</div>voluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8726509563833692641.post-6110921470771542222022-06-15T11:51:00.039+07:002022-07-14T05:46:17.164+07:00Nghi thức Sám Hối và Niệm Phật thực hiện hàng ngày<p style="text-align: justify;"></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgVPVHuhQysNhDV1TkTSXfroN3RL1awpKMIZoDHBz2gZ3_yHv2Ex6AgMdwOH-Mdo5xSvYDaR7p0YQGe_HmFLgWr-BqmwpaMC4E1AHUAE8Mlpx9vgaVe792mylNXG63PjD42sv_D2dgFsXgrBBSchxvEovsHWa9q2_u0iBsS1fjAYL9Rvudx07dyP7Cp4Q/s3484/Quyen-kinh-sam-hoi.jpg" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="2336" data-original-width="3484" height="215" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgVPVHuhQysNhDV1TkTSXfroN3RL1awpKMIZoDHBz2gZ3_yHv2Ex6AgMdwOH-Mdo5xSvYDaR7p0YQGe_HmFLgWr-BqmwpaMC4E1AHUAE8Mlpx9vgaVe792mylNXG63PjD42sv_D2dgFsXgrBBSchxvEovsHWa9q2_u0iBsS1fjAYL9Rvudx07dyP7Cp4Q/s320/Quyen-kinh-sam-hoi.jpg" width="320" /></a></div><div style="font-weight: bold; text-align: justify;"><b><span style="font-size: large;">VLCĐ: Việc chọn lựa công phu Sám Hối Niệm Phật đang được đa số Phật tử chuyên tu Tịnh độ thực hiện hàng ngày. Lâu nay, người hành trì thường truyền nhau những nghi có những nội dung không đồng nhất, thậm chí có nghi mắc dính lỗi đánh máy... Nhằm giúp cho quý vị chuyên tu Tịnh Độ và dùng thời công phu sáng để lạy Phật sám hối, viên mãn công đức hành trì.<br /><br /></span></b></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-size: large;">Chúng tôi xin giới thiệu quyển Nghi thức <b>SÁM HỐI - NIỆM PHẬT THƯỜNG NHẬT</b> của tác giả <b>NGUYÊN ĐIỀN</b> sắp xếp và hiệu chỉnh lại nhân mùa An Cư năm Nhâm Dần. PL: 2566 - DL: 2022. Đây là một nghi ngắn gọn nhưng đầy đủ các phần chính yếu cho một khóa lễ, có cả phần Tác bạch, Đảnh lễ Sám hối, Lạy Kinh Di Đà và các phần hồi hướng quan trọng. (Tùy theo công phu và sở nguyện mà có thể lược bớt phần sám bạch và hồi hướng)</span></div><p></p><p></p><div style="text-align: justify;"><span style="font-size: large;">Quý vị hữu duyên có thể tải từ File PDF và đem ra tiệm in ấn với Yêu cầu:</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span>1./ Hãy in tờ đầu riêng, phần còn lại đã dàn trang theo dạng <b>sách gấp</b>, chỉ cần in ngang hai mặt trên tờ A4 (thành 4 trang /1 tờ). Nếu có sẵn máy in, quý vị vẫn có thể in được một cách dễ dàng mà không cần phải tính toán số trang hay can thiệp gì thêm</span><span><span>. Nên dùng giấy "</span><b>trắng ngà</b><span>" (giấy Bãi Bằng) để in Kinh hoặc các loại sách thường đọc vì sẽ tránh được mỏi hại mắt khi ánh sáng đèn trắng chiếu vào.</span></span></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-size: large;">2./ Bìa Kinh có sẵn trong File tải về và in màu offset, hệ màu RGB</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><br /></span></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEja9W9wojH0UNDo4NNf7Rpq-uaqbNkeJ3MJsegMgGzCb6-gsP4enBVjIB8bjnP_M94AZQTUzNeuXs3e97q7lgF1obk_iRVJ9i1g6IaKxq5yCdC9GUsPoyA2ICd_6TSW8Won4q3gHK-DdkeVozVOZHyKj2v-YLm0H9yUJeG_SqQuST0U7j-LiDAhGWHNaA/s1169/Bia%20Kinh%20Sam%20Hoi-Small.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><span style="font-size: large;"><img alt="Sám Hối và Niệm Phật- Ảnh Tây Phương Tam Thánh 2022" border="0" data-original-height="827" data-original-width="1169" height="452" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEja9W9wojH0UNDo4NNf7Rpq-uaqbNkeJ3MJsegMgGzCb6-gsP4enBVjIB8bjnP_M94AZQTUzNeuXs3e97q7lgF1obk_iRVJ9i1g6IaKxq5yCdC9GUsPoyA2ICd_6TSW8Won4q3gHK-DdkeVozVOZHyKj2v-YLm0H9yUJeG_SqQuST0U7j-LiDAhGWHNaA/w640-h452/Bia%20Kinh%20Sam%20Hoi-Small.jpg" title="Sám Hối và Niệm Phật- Ảnh Tây Phương Tam Thánh 2022" width="640" /></span></a></div><span style="font-size: large;"><br /></span><div class="separator" style="clear: both; text-align: left;"><span style="font-size: large; text-align: justify;"><b>Phát nguyện: <a href="https://www.mediafire.com/file/myqfmz6vqjnc451/Sam_Hoi_Niem_Phat.rar/file" target="_blank">THỈNH KINH</a></b></span></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: left;"><span style="font-size: large;"><span style="text-align: justify;">Nội dung trong File Rar tải xuống gồm 4 File PDF</span><b style="text-align: justify;"></b></span></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: left;"><span><span style="font-size: large; text-align: justify;">1./ Bìa Kinh.</span></span></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: left;"><span><span style="font-size: large; text-align: justify;">2./ Tờ đầu trang (A4) in riêng</span></span></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: left;"><span><span style="font-size: large; text-align: justify;">3./ Ruột kinh chưa dàn trang (chỉ đánh số trang)</span></span></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: left;"><span><span style="font-size: large; text-align: justify;">4./ Ruột kinh đã dàn trang theo dạng sách gấp, chỉ việc in không cần can thiệp gì thêm.</span></span></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: left;"><span style="font-size: large; text-align: justify;"><br />Quý vị có thể xem hoặc đọc trên điện thoại File PDF nội dung dưới đây:</span></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: left;"><span style="font-size: large; text-align: justify;"><i>(Lưu ý: Không dùng cho in ấn vì chưa dàn trang theo dạng sách gấp)</i></span></div><p style="text-align: center;"><iframe height="600" src="https://drive.google.com/file/d/1a5TIlvOCFIugr3APXK3KIprvfuAaXA3e/preview" style="margin: 0px; padding: 0px;" width="95%"></iframe></p><p style="text-align: center;"><br /></p>voluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.com1tag:blogger.com,1999:blog-8726509563833692641.post-64334391528976932382022-06-07T10:26:00.011+07:002022-06-10T16:53:34.423+07:00Con người sau khi chết sẽ thế nào và tiến trình sau đó của linh hồn<p></p><p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;"></span></b></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj2Vsb9D_P2VMkVFL-trPmlysFaFAWmlm1Gu5SQKDK7HnJBHdQuhAzHQo8qASk88xLPReBR1yoq0ZOwIL3ya6qkaVuxz-Q6_Q0TFGu88EUHWwTQGAbwR9pQ01lx6JGhDU_yxXSkEWdw-eZC--BEovhUI0Ao0tJLDnTsrMzz2WXPGI_sIKvCOceaQ1Vyng/s926/sau-khi-chet-2.jpg" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="547" data-original-width="926" height="189" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj2Vsb9D_P2VMkVFL-trPmlysFaFAWmlm1Gu5SQKDK7HnJBHdQuhAzHQo8qASk88xLPReBR1yoq0ZOwIL3ya6qkaVuxz-Q6_Q0TFGu88EUHWwTQGAbwR9pQ01lx6JGhDU_yxXSkEWdw-eZC--BEovhUI0Ao0tJLDnTsrMzz2WXPGI_sIKvCOceaQ1Vyng/s320/sau-khi-chet-2.jpg" width="320" /></a></b></div><b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><div style="text-align: justify;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><span style="font-size: medium;">VLCĐ: Sau khi
chết sẽ như thế nào, linh hồn của người chết sẽ đi về đâu, tiến trình của cái
chết như thế nào? Cái chết đối với
nhiều người có thể là chủ đề kiêng kỵ, thậm chí còn rất khó nói vì gợi lên cảm
giác sợ hãi đầy bí ẩn. Thật ra, việc tìm hiểu điều gì sẽ xảy ra với cơ thể sau
khi chết không hề đáng sợ như bạn vẫn nghĩ. Sau khi chết con người sẽ như
thế nào? Theo bạn có tồn tại thế giới sau khi chết không?</span></b></div><o:p></o:p></b><p></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Điều Gì Xảy Ra Với Cơ Thể Sau Khi Chết Đi? Sau Khi
Chết Sẽ Như Thế Nào?<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Tiến Trình Của
Sự Chết<o:p></o:p></span></b></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu
trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến
phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy. Từ lúc tim ngừng đập đến lời
thông báo chính thức rằng một người đã chết, các bác sĩ chờ đợi 2,3,5 hoặc 10
phút, nhưng “thời gian chuẩn” mà ngành y gọi là asystolic là bao nhiêu vẫn còn
có sự khác biệt giữa hai quan điểm của “y học cổ truyền Tây Tạng” và y học hiện
đại. <o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">– Theo y học
hiện đại</span></b><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">
thì bệnh nhân chỉ thực sự chết sau khi tim ngừng đập nửa giờ. Bốn giờ sau khi
tim ngừng đập thì não mới chết hẳn và không còn “hoạt động điện não”… Sau đó,
cơ thể người chết trở nên lạnh cứng, lộ rõ âm khí và hoại tướng của một tử thi. <o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">– Theo “Tạng
thư sống chết” </span></b><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">và “Tử thư Tây Tạng”: Phải mất 8 giờ sau khi tim ngừng đập và tắt hơi,
con người mới chết hẳn và các nghi thức tẩn liệm chỉ được phép thực hiện sau 8
giờ. Tiến trình chết là quá trình tan rã gồm hai giai đoạn: một sự tan rã bên
ngoài, khi các căn và tứ đại phân tán; và một sự tan rã bên trong, thuộc về các
ý tưởng và cảm xúc thô và tế.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;"></span></b></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjUUxfGnVm2_bSwjr7vIelHNfX2krSJ34IfULKMiUvc--ze8SDmV6Z56nxp4Yz4fOgguA2YfTi6xoP9IU6O_CJj3tQdLSH05OM4sOixPKasVUZbOJ5BweJoAYtFM7xxxHrmVsMbVDKDd0vuX9bpwVTzkb9eJZkXTvxInw6fu6gO2KTLka16I5pBYgqTKA/s628/sau-khi-chet-1.jpg" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="414" data-original-width="628" height="211" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjUUxfGnVm2_bSwjr7vIelHNfX2krSJ34IfULKMiUvc--ze8SDmV6Z56nxp4Yz4fOgguA2YfTi6xoP9IU6O_CJj3tQdLSH05OM4sOixPKasVUZbOJ5BweJoAYtFM7xxxHrmVsMbVDKDd0vuX9bpwVTzkb9eJZkXTvxInw6fu6gO2KTLka16I5pBYgqTKA/s320/sau-khi-chet-1.jpg" width="320" /></a></b></div><b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><div style="text-align: justify;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal;">Sự Tan Rã Bên
Ngoài:</b></div></b><span style="font-size: 13pt;"><div style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;">Lục căn phân tán và ngưng hoạt động. Thân xác mất
hết sức mạnh, không còn chút năng lực nào: không thể ngồi thẳng, đứng lên hay
cầm bất cứ vật gì. Màu da phai nhạt dần và một màu tái xanh hiện ra. Má hóp
lại, thấy khó mở mắt, nhắm mắt. Khi sắc uẩn phân tán, con người bất động, tâm
thần dao động, miệng có thể nói nhảm, sau đó đi vào trạng thái hôn trầm.</span></div></span><p></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Thủy đại tan
rã:</span></b><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;"> Con
người bắt đầu mất khả năng kiểm soát chất lỏng trong thân. Mũi ta bắt đầu chảy
nước và miệng rỏ nước miếng. Có thể nước mắt chảy ra và ta có thể mất tự chủ.
Lưỡi không còn di động, lỗ mắt khô cạn, môi tái lại và thụt vào.. Tâm thức ta
trở nên mờ mịt, bất mãn, bực tức và nóng nảy.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Hỏa đại tan rã:</span></b><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;"> Tất cả hơi ấm trong cơ
thể bắt đầu mất dần, từ dưới chân lạnh ngược lên đến tim. Tâm trí bắt đầu lộn
xộn: không thể nhớ được tên bà con, bè bạn hay nhận ra họ, càng lúc càng khó
nhận ra những gì ở bên ngoài, vì âm thanh và hình ảnh luôn trộn lẫn. <o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Phong đại tan
rã:</span></b><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;"> Ta càng
lúc càng khó thở. Không khí dường như thoát ra ngõ yết hầu chúng ta. Hơi thở
vào càng lúc càng ngắn và khó nhọc. Mọi sự trở nên một khối mờ mịt. Cảm giác
liên lạc cuối cùng của chúng ta với tình trạng xác thân đang tan mất. Bắt đầu
có ảo giác và thấy các cảnh tượng: nếu trong đời, ta đã tạo nhiều nghiệp ác, ta
có thể trông thấy những hình thù ghê rợn. Những người sống đời lương thiện, khi
chết cảm thấy bình an thay vì sợ hãi.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Vào thời điểm này, máu tụ lại đi vào trong “kinh
mạch của sự sống” nằm chính giữa tim ta. Ba khối máu lần lượt tụ lại gây nên ba
hơi thở ra cuối cùng. Rồi thình lình hơi thở ta chấm dứt. Chỉ một chút hơi ấm
còn lại trong tim. Một dấu hiệu của sự sống không còn, và đây là điểm mà sự xét
nghiệm lâm sàng cho là: “chết”. Tuy nhiên, các bậc thầy Tây Tạng cho rằng vẫn
còn tiếp diễn một tiến trình bên trong. <o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;"></span></b></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhHPNRntLLMkLskEGbbk4UkdGboew9ussuzkbCwV-viUWNB_OBsk78geTI1yz3RLyi1EwXzGlt2JbIyJduoqMpU5Qd1KsrQAfkNucuBZFFSNPAOVYeQLA9_M8Ebr8q8Z6pMa-0NeDU5Ssf5q7JBnNYpQog5dv6YpnlCpR1E1hy4oI5iGg3lgF6WAQIhrg/s650/sau-khi-chet-3.jpg" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="391" data-original-width="650" height="192" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhHPNRntLLMkLskEGbbk4UkdGboew9ussuzkbCwV-viUWNB_OBsk78geTI1yz3RLyi1EwXzGlt2JbIyJduoqMpU5Qd1KsrQAfkNucuBZFFSNPAOVYeQLA9_M8Ebr8q8Z6pMa-0NeDU5Ssf5q7JBnNYpQog5dv6YpnlCpR1E1hy4oI5iGg3lgF6WAQIhrg/s320/sau-khi-chet-3.jpg" width="320" /></a></b></div><b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><div style="text-align: justify;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal;">Sự Tan Rã Bên
Trong:</b></div></b><span style="font-size: 13pt;"><div style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;">Trong quá trình tan rã nội tâm, ở đấy những tâm
trạng và cảm xúc từ thô đến tế tan rã, có bốn tầng lớp tâm thức vi tế được gặp
gỡ. Ở đây, tiến trình chết phản ảnh ngược lại với tiến trình đầu thai. Khi tinh
huyết cha mẹ gặp gỡ, tâm thức ta do nghiệp thúc đẩy, bị kéo vào. Trong thời kỳ
phát triển bào thai, tinh chất của cha, một hạt nhân “trắng và phúc lạc” an trú
trong luân xa ở đỉnh đầu, trên cùng của huyệt đạo trung ương.</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;">Tinh chất của
người mẹ, một hạt nhân “đỏ và nóng” an trú trong luân xa nằm dưới rốn chừng bốn
ngón tay. Chính từ nơi hai tinh chất này mà những giai đoạn kế tiếp của sự tan
rã xảy ra.</span></div><br /><div style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;">Với sự biến mất của ngọn gió giữ nó lại đẩy, tinh chất màu trắng đi
đến huyệt đạo về phía trái tim. Bên ngoài có tướng màu “trắng” hiện ra như “một
bầu trời trong sáng dưới ánh trăng”. Bên trong, ý thức chúng ta trở nên vô cùng
sáng suốt, và tất cả những tâm trạng do sân giận, gồm 33 thứ, đều dứt. Giai
đoạn này gọi là “xuất hiện”. Rồi tinh chất của mẹ bắt đầu đi lên qua huyệt đạo
trung ương, khi ngọn gió giữ nó nguyên chỗ đã biến mất. Tướng bên ngoài là một
màu “đỏ” như mặt trời chiếu trên nền trời trong. Bên trong, có một cảm giác
phúc lạc phát sinh, và những tâm trạng do tham dục, gồm 40 thứ tất cả, ngưng
hoạt động. Giai đoạn này gọi là “tăng trưởng”.</span></div></span><p></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Khi hai tính chất đỏ, trắng gặp gỡ ở tim, tâm thức
được kèm theo trong ấy. Tulku Urgyen Rinpoche, một bậc thầy lỗi lạc ở Nepal,
nói: “Kinh nghiệm ấy giống như bầu trời và trái đất gặp nhau”. Bên ngoài, chúng
ta thấy xuất hiện một màu “đen”, giống như một bầu trời trống rỗng chìm trong
màn đêm dày đặc. Tướng bên trong là một trạng thái tâm thức không có tư tưởng.
Bảy trạng thái tâm do ngu si và vọng tưởng đi đến chấm dứt. Điều này được gọi
là “thành tựu”. Khi chúng ta hơi tỉnh giác trở lại, ánh sáng căn bản lóe lên
như một bầu trời vô nhiễm không mây mù. Đôi khi đấy gọi là “tâm với ánh sáng
trong của sự chết”. Đức Đạt lai Lạt ma nói: “Tâm thức này là tâm thức sâu xa
nhất. Chúng ta gọi nó là Phật tính, suối nguồn thực sự của mọi thức. Dòng tương
tục của tâm thức này kéo dài ngay cả đến khi thành Phật quả.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;"><b></b></span></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><b><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiHzQUFU3trs2k7TnpDwd1U_4SQJ96t8HiBwAnyh26JG8aK-Uu3u5NlJzBrXDl4yVtn1zir4KtS8YtmOVdHZWnGsu4TWvUUXqeHrDrciE7JQSkWQ1WgDPyAaSxOyqhvZQcnQD-FdCzryR46F87YAu5FRbnaqhJpKf9LjwEFqjOAODWuDUsaTIk5Jkb_VA/s640/sau-khi-chet-5.jpg" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="319" data-original-width="640" height="160" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiHzQUFU3trs2k7TnpDwd1U_4SQJ96t8HiBwAnyh26JG8aK-Uu3u5NlJzBrXDl4yVtn1zir4KtS8YtmOVdHZWnGsu4TWvUUXqeHrDrciE7JQSkWQ1WgDPyAaSxOyqhvZQcnQD-FdCzryR46F87YAu5FRbnaqhJpKf9LjwEFqjOAODWuDUsaTIk5Jkb_VA/s320/sau-khi-chet-5.jpg" width="320" /></a></b></div><b>Linh hồn của
người chết sẽ đi về đâu ?<br /></b><span style="font-size: 13pt;">Nếu Tồn Lại Thế Giới Sau Khi Chết, Thì Điều Gì Xảy
Ra Với Linh Hồn Sau Khi Con Người Chết Đi?</span><p></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Dựa vào các nền văn hóa của tôn giáo phương Đông
(Phật giáo và Đạo giáo), tương truyền rằng sau khi thọ mệnh người ta kết thúc,
sẽ có quỷ sai của âm gian là Hắc Bạch Vô Thường đến dẫn hồn phách người ta
xuống Quỷ Môn quan. Sau đó Tứ đại Sứ giả của âm gian là Đầu Trâu Mặt Ngựa, dẫn
vong linh đến Âm Tào Địa Phủ; tiếp đó được thẩm phán của chư vị Đại Phán quan
của Thập Điện Diêm La dưới âm gian tiếp nhận. Cuối cùng mới quyết định vong
linh là có thể đi vào cõi nào để tiếp tục luân hồi: hoặc là lên trời hưởng phúc
lành, hoặc là tiếp tục đầu thai làm người nữa hoặc loại động vật nào đó, hoặc
là bị đánh vào mười tám tầng địa ngục như trong truyền thuyết để chịu khổ hình.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Ải Thứ Nhất:
Quỷ Môn Quan<o:p></o:p></span></b></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Sau khi con người chết đi, trước hết là do quỷ sai
nơi âm gian Hắc Bạch Vô Thường dẫn ba hồn bảy phách đi, rồi giao cho quỷ Đầu
Trâu Mặt Ngựa dẫn đến Quỷ Môn quan – một quan ải cần phải đi vào cõi âm gian.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Trước Quỷ Môn quan có mười sáu quỷ lớn.Lúc còn sống
bất luận là quan chức quyền quý hay bá tánh bình dân, ai đã đến nơi đây đều cần
phải tiếp nhận tra xét, xem xem có mang theo lộ dẫn – giấy thông hành đến quỷ
quốc hay không, đây là căn cứ của người sau khi chết đi đến quỷ quốc báo danh.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Ải Thứ Hai:
Đường Hoàng Tuyền<o:p></o:p></span></b></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Qua khỏi Quỷ Môn quan, tiếp đó phải đi qua một con
đường Hoàng Tuyền dài đằng đẵng. Hồn phách của người ta đến âm gian báo danh sẽ
phải đi một đoạn đường rất dài, qua rất nhiều quan, vì vậy đường Hoàng Tuyền
(Suối Vàng) là tên gọi chung đối với những quan và lộ trình này. Trên đường
Hoàng Tuyền có hoa Bỉ Ngạn màu đỏ.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Ngoài ra, trên đường Hoàng Tuyền còn có rất nhiều cô
hồn dã quỷ, họ là những người dương thọ chưa hết mà chết bất đắc kỳ tử; họ đã
không thể lên trời, cũng không thể đầu thai, càng không thể đến âm gian, chỉ có
thể lang thang trên đường Hoàng Tuyền, đợi đến dương thọ kết thúc rồi mới có
thể đến âm gian báo danh, nghe Diêm La Vương phán xét.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Ải Thứ Ba: Tam
Sinh Thạch<o:p></o:p></span></b></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Bên cạnh cầu Nại Hà có tảng đá xanh tên Tam Sinh
thạch. Nghe nói rằng, tảng đá này ghi chép lại đời trước, đời này và đời sau
của mỗi một người. Nhân của đời trước, quả của kiếp này, duyên khởi duyên diệt,
đều chất chồng mà khắc trên tảng đá ba đời.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Trăm nghìn năm nay, nó đã chứng kiến sầu khổ và mừng
vui, bi ai và hạnh phúc, nụ cười và nước mắt, cho đến hết thảy những món nợ và
những tình cảm phải trả của tầng tầng lớp lớp chúng sinh. Đứng trước tảng đá ba
đời này là thấu tỏ hết.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Ải Thứ Tư:
Vọng Hương Đài<o:p></o:p></span></b></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Vọng Hương đài, cũng chính là Thổ Cao đài, nơi có
đình Mạnh Bà. Ở nơi này, có thể lên đài nhìn về ngôi nhà nơi dương thế, vậy nên
nơi đây đã trở thành cửa sổ nhìn về Dương gian của quỷ hồn và Thánh địa, là nơi
liên lạc tình cảm giữa người sống và người chết, là nơi mà vong hồn nhìn về
dương thế tạm biệt người thân một lần cuối cùng. <o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Ải Thứ Năm:
Vong Xuyên Hà<o:p></o:p></span></b></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Vong Xuyên hà chắn ngang giữa đường Hoàng Tuyền và
Âm phủ. Nước sông có màu đỏ như máu, bên trong hết thảy đều là cô hồn dã quỷ
không được đầu thai, trùng rắn khắp nơi.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Đương nhiên, sau khi con người chết vì để
kiếp sau có thể gặp lại người mình yêu thương nhất trong kiếp này, người ta có
thể không uống canh Mạnh Bà, vậy cần phải nhảy vào Vong Xuyên hà, đợi trên
nghìn năm mới có thể đầu thai.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Trong nghìn năm đó, hoặc có lẽ sẽ nhìn thấy người mà
mình yêu thương nhất trong kiếp này đi trên đầu, nhưng không thể nói chuyện với
nhau, bạn thấy họ, nhưng họ lại không thấy bạn. Sau nghìn năm, nếu như lòng nhớ
nhung của bạn không hề giảm đi, còn có thể nhớ được chuyện của đời trước, vậy
thì có thể trở lại nhân gian, tìm kiếm người mà bạn yêu nhất trong đời trước.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Ải Thứ Sáu:
Canh Mạnh Bà<o:p></o:p></span></b></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Canh Mạnh Bà còn gọi là Vong Tình Thủy hoặc Vong Ưu
Tán, hễ uống vào liền quên hết mọi chuyện của đời này lẫn đời trước. Mạnh Bà
phân phát canh Mạnh Bà ở đầu cầu Nại Hà, chứ không phải ở trên cầu.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Sau khi con người chết mỗi một người đều phải
đi qua cầu Nại Hà, Mạnh Bà đều sẽ hỏi có uống canh Mạnh Bà không, nếu muốn qua
cầu Nại Hà, thì cần phải uống canh Mạnh Bà. Còn không uống canh Mạnh Bà, thì
không qua được cầu Nại Hà, không qua được cầu Nại Hà, thì không được đầu thai
chuyển sinh.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Uống canh Mạnh Bà rồi, có thể quên đi hết thảy sầu
khổ, buồn vui nơi trần thế, chỉ uống canh thuốc của bà, mối thù trong đời này
kiếp này sẽ quên sạch đi, đến thế gian làm một con người hoàn toàn mới.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Ải Thứ Bảy:
Cầu Nại Hà<o:p></o:p></span></b></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Cây cầu chia thành ba tầng, tầng trên đỏ, tầng giữa
màu vàng đen, tầng dưới cùng là màu đen. Khi sống làm việc thiện thì đi tầng
trên, người nửa thiện nửa ác thì đi tầng giữa, những người hành ác thì chính là
đi tầng dưới cùng.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Bên dưới cầu là con sông có vô số cô hồn dã quỷ
không được đầu thai; những quỷ hồn chết đuối kia đều là ở trên dưới nhịp cầu
hoặc trái phải đầu cầu, mong tìm thế thân cho mình, để bản thân có thể đầu thai
chuyển thế.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Những người đi tầng dưới sẽ bị quỷ hồn chặn lại, lôi
vào trong sóng lớn bẩn thỉu, bị rắn đồng chó sắt cắn xé, chịu đủ thống khổ dày
vò không được giải thoát.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Đi qua hết cầu Nại Hà bèn có thể thông đến sáu nơi,
tức là đi vào cõi lục đạo luân hồi: cõi người trời, cõi A-tu-la, cõi người, cõi
súc sinh , cõi quỷ đói, cõi địa ngục.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Trong đó, người trời, A-tu-la là cõi người thuộc về
ba đường trên, còn súc sinh, ác quỷ, địa ngục thì thuộc về ba đường dưới.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;"></span></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh23qduzFzuT1lkgtlElPGZjm7oxN56sai6ZvzVatm6IM_jZ9Qjdbl-iOrLjxiC-EJCiXAxUQm_XrwvDseu1EOh19KpmUy8WrfcaPDHminQfwoJQqlKqgT3cr7WXhKX6rRN4NStCbgTRAE3S4BJK3LiQfdi1yxk97cujr3yiIKe9QJIRPsdp1-aZzWUXw/s600/sau-khi-chet-4.jpg" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="392" data-original-width="600" height="209" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh23qduzFzuT1lkgtlElPGZjm7oxN56sai6ZvzVatm6IM_jZ9Qjdbl-iOrLjxiC-EJCiXAxUQm_XrwvDseu1EOh19KpmUy8WrfcaPDHminQfwoJQqlKqgT3cr7WXhKX6rRN4NStCbgTRAE3S4BJK3LiQfdi1yxk97cujr3yiIKe9QJIRPsdp1-aZzWUXw/s320/sau-khi-chet-4.jpg" width="320" /></a></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-size: medium;">Còn về đi về cõi nào, là dựa vào nghiệp thiện ác
tích được của vong hồn lúc còn sống mà phân loại. Người thiện nghiệp nhiều luôn
luôn sẽ được bố trí ba đường trên, những người ác nghiệp nhiều luôn luôn được
bố trí ba đường dưới.</span></div><span style="font-size: medium;"><o:p></o:p></span><p></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: medium; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Quá trình đi xuống âm gian của người ta sau khi chết
vốn không thông dụng với hết thảy mọi người. Những người tu hành làm thiện nếu
như công đức đạt đến viên mãn, sau khi hết mệnh sẽ không phải trải qua quá
trình âm gian này mà trực tiếp được Phật tiếp dẫn đến thế giới Tây Phương Cực
Lạc; những kẻ đại ác làm nhiều việc gian ác cũng có thể sẽ không trải qua quá
trình âm gian này, bởi nghiệp lực dẫn dắt mà sẽ bị đánh thẳng vào địa ngục.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: medium; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Lựa chọn tốt nhất cho mỗi chúng ta là hãy sống thật
tốt trong hiện tại và nếu được hãy tu tập tâm tính của bản thân để đến khi nhắm
mắt xuôi tay không phải hối hận về những gì mình đã làm lúc còn sống. Hy vọng
bài viết đã giúp bạn trả lời được câu hỏi sau khi chết sẽ như thế nào?</span></p><p></p>
voluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.com1tag:blogger.com,1999:blog-8726509563833692641.post-66261835010919288512022-06-07T09:33:00.004+07:002022-06-07T09:33:55.518+07:00Tại sao niệm Phật A Di Đà lại bỏ đi chữ Nam mô ?<p></p><p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;"><b></b></span></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><b><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh9bY8Rq50vAHC_bWuLHa0qrO-AGBcl3J9t0_wlZrNXRbkGXorb6Z2x_G4kK1A5HC6AUerYXnhyGdCXZGB8QR4y2kLbYbbuti9LoDBdkpJfiSqzFBpze0pDMhwBqY8-lQZZm1wY3o3dI7oEd9RgsrOLrAgxm-Ga-9TchKT7lXsiqzRiKqnyQcS-65mzWA/s390/niemphat.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="250" data-original-width="390" height="205" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh9bY8Rq50vAHC_bWuLHa0qrO-AGBcl3J9t0_wlZrNXRbkGXorb6Z2x_G4kK1A5HC6AUerYXnhyGdCXZGB8QR4y2kLbYbbuti9LoDBdkpJfiSqzFBpze0pDMhwBqY8-lQZZm1wY3o3dI7oEd9RgsrOLrAgxm-Ga-9TchKT7lXsiqzRiKqnyQcS-65mzWA/s320/niemphat.jpg" width="320" /></a></b></div><b>VLCĐ: Quy mạng lễ A-Di-Đà Phật. Nam mô tức là
Quy-mạng, Niệm bốn chữ A-Di-Đà Phật là chỉ gọi tên Ngài mà thôi, Vậy gọi nhiều
chỉ làm cho Ngài sốt ruột mà thôi. Phật hỏi gọi tên Ta hoài để làm gì vậy? Sốt
ruột quá! Hãy quy mạng với Ta đi nếu muốn Ta tiếp-dẫn về Cực-Lạc!</b><o:p></o:p><p></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;">Trong diễn đàn này nhiều quý bạn hữu đã nói về niệm
Phật A-Di-Đà bốn chữ hay sáu chữ. Theo tôi thì chúng ta đã học Mười hạnh
Phổ-Hiền thì bình-đẳng kính chung không từ một ai, nhưng tin vào lời người ta
nói thì phải có sự quán xét đúng hay sai.</span></p><p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">
Đặc biệt với Phật pháp và giáo lý nhà Phật thì đòi hỏi phải thật nghiêm túc nếu
không sai một ly đi vạn dặm, có khi mất hết cả công sức bao nhiêu năm tu hành
bỏ ra mà không thành tựu, thậm chí còn sa hố là phỉ báng chính pháp, phát đi
những điều không đúng về giáo lý của Phật.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Phật dạy chúng ta không tranh cãi với hàng Thanh-Văn, và với lòng kính
chung tôi không có một vẩn đục ý ganh đua tranh cãi mà chỉ muốn đem đến giá trị
đích thực những lời chỉ dạy của Phật và các chư đại Bồ-Tát về pháp môn tu hành
Niệm Phật mà thôi. Theo tôi, khi chúng ta nghiên cứu kỹ lưỡng Kinh Niệm Phật
ba-La-Mật và Kinh Đại-Thừa Vô-Lượng-Thọ hay các Kinh điển xưa nay về pháp môn
Tịnh-Độ Phật và chư Đại Bồ-Tát đều khuyên chúng ta Niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà
là Sáu chữ hồng danh Nam mô A-Di-Đà Phật, không hề thấy có một lời nào, câu nào
nói là niệm bốn chữ như có vài người đã nói ra và bào chữa về việc này.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Hơn nữa, đứng về Lý thì tôi thấy như sau:<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">A-Di-Đà Phật, bốn chữ này chỉ là nói về tên của Phật mà thôi.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Còn danh hiệu Ngài bao giờ cũng gắn với bản nguyện
của Ngài là mong muốn tiếp-dẫn chúng sinh về Tây phương Cực-Lạc nếu như họ một
lòng trì nguyện danh hiệu của Ngài, một lòng tha thiết nguyện được vãng sinh về
đó, sám hối, làm các công đức lành như lời nguyện thứ 18, 19, 20 trong bốn mười
tám lời nguyện của Phật A-Di-Đà. Chúng ta hãy đi nghiên cứu lại thật kỹ mấy lời
nguyện quan trọng này của Ngài:<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;"> <b style="mso-bidi-font-weight: normal;">Ðiều nguyện thứ mười tám:<o:p></o:p></b></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Nếu con được thành Phật mà chúng sinh trong mười
phương dốc lòng tin tưởng, muốn sinh về cõi nước con chỉ trong mười niệm, nếu
không được toại nguyện thì con chẳng trụ ở ngôi Chính-Giác, trừ kẻ phạm năm tội
nghịch và phỉ báng chính pháp.<br />
<br />
<b style="mso-bidi-font-weight: normal;">Ðiều nguyện thứ mười chín:</b><o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Nếu con được thành Phật mà chúng sinh mười phương
phát tâm Bồ-Ðề, tu các công đức, dốc lòng phát nguyện, muốn sinh về cõi nước
con, tới khi thọ chung mà con chẳng cùng đại chúng hiện ra chung quanh trước
mặt người ấy thì con chẳng trụ ở ngôi Chính-Giác.<br />
<br />
<b style="mso-bidi-font-weight: normal;">Ðiều nguyện thứ hai mươi:</b> <o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Nếu con được thành Phật mà chúng sinh trong mười
phương nghe danh hiệu của con, để lòng nhớ nghĩ đến nước con, tu trồng các công
đức, dốc lòng hồi hướng, cầu sinh về cõi nước con mà không được vừa lòng thì
con chẳng trụ ở ngôi Chính-Giác.<br />
Vì thế, danh hiệu của Ngài gắn với hai chữ Nam mô tức là Quy-mạng, là trao thân
mạng hay ngắn gọn là hai chữ Nam mô gắn với tên Ngài.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Đừng vội tin lời tôi hay bất kỳ ai nói mà tôi mong
rằng bạn hãy nghiên cứu sâu Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật và các Kinh điển khác của
Phật để mà đối chiếu quán xét thực hư, chân, ngụy.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;"></span></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhecbaWNFqdiBYm4w5_DQoQq2n-06YMHtPH30oCBx0a3To602lYEICUljwL7gLCx8bsxwLLcxBUah6pleYdpzU0dZtQY5vfGDYCKhOgtQJOkE6XgzcAsYu-9mP-sohnFleXm_K6hKAk9s2WcQvVUU34LzTaBKlNLW4FFIW4C0yIYh4qUQdk9gbFAc1-VQ/s300/Banner300.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="250" data-original-width="300" height="250" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhecbaWNFqdiBYm4w5_DQoQq2n-06YMHtPH30oCBx0a3To602lYEICUljwL7gLCx8bsxwLLcxBUah6pleYdpzU0dZtQY5vfGDYCKhOgtQJOkE6XgzcAsYu-9mP-sohnFleXm_K6hKAk9s2WcQvVUU34LzTaBKlNLW4FFIW4C0yIYh4qUQdk9gbFAc1-VQ/s1600/Banner300.jpg" width="300" /></a></div>Nếu bạn nghiên cứu thật kỹ thì bạn sẽ thấy rõ Phật Thích-Ca Mâu-Ni và Đức
Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Đại-Hạnh Phổ-Hiền Bồ-Tát đều không tách dời hai chữ Nam mô
với bốn chữ A-Di-Đà Phật mà luôn nói trọn vẹn là Trì danh niệm Nam mô A-Di-Đà
Phật và Danh hiệu của Phật A-Di-Đà liên tục được nói đi nói lại đều là Nam mô
A-Di-Đà Phật, còn A-Di-Đà Phật chỉ là tên Ngài mà thôi.<o:p></o:p><p></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Ở Phẩm thứ ba, Niệm Phật Công Đức trong Kinh này ngài Đại-Hạnh-Phổ-Hiền Bồ-Tát
đã giải thích rất rõ về giá trị không thể thiếu của người niệm Phật về hai chữ
Nam mô gắn chặt với tên của Ngài là: A-Di-Đà Phật và khuyên chúng ta phải niệm
danh hiệu Ngài là sáu chữ Hồng danh Nam mô A-Di-Đà Phật trong khi thực hành
pháp môn niệm Phật.</span></p><p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;">Trong các phần Nghi thức tụng niệm xưa nay của các vị Bồ-Tát, các vị Sư tổ đều
có câu:</span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;"></span></p><blockquote><p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Phật A-Di-Đà Thân sắc vàng<br /></span><span style="font-size: 13pt;">Tướng tốt chói sáng không gì bằng<br /></span><span style="font-size: 13pt;">Lông mày trắng như năm Tu-Di<br /></span><span style="font-size: 13pt;">Mắt xanh trong giống bốn biển lớn</span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Quy mạng lễ A-Di-Đà Phật<br /></span><span style="font-size: 13pt;">Ở phương Tây thế-giới an lành.<br /></span><span style="font-size: 13pt;">Con nay xin phát nguyện vãng sinh<br /></span><span style="font-size: 13pt;">Cúi xin đức từ-bi cứu độ.</span></p></blockquote><p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;"></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Tôi đã phải in đậm câu Quy mạng lễ A-Di-Đà Phật là vì có người khi thực hành
bốn chữ niệm tên Ngài lại biện hộ cho rằng thêm hai chữ Nam mô là khách sáo và
khó niệm, khó nhớ. Trên cơ sở của câu niệm này thì ta thấy các vị Bồ-Tát, các
vị Sư tổ đã nói rõ hơn hai </span><span style="font-size: 13pt;">chữ Nam mô tức là Quy-mạng.</span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Vậy sao có thể bỏ đi hai chữ Nam mô vô cùng quan trọng này để chỉ niệm bốn chữ
tên của Ngài? Chẳng nhẽ người ta trí tuệ hạ đẳng đến mức không nhớ nổi hai chữ
Nam mô? Và hai chữ này có giá trị vô cùng quan trọng đến mức đem thân mạng,
tinh thấn, ý chí của người niệm Phật về với cha lành A-Di-Đà Phật lại là khách
sáo sao?<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Niệm bốn chữ là tùy nơi bạn nhưng giải thích như vậy là không đúng với danh
hiệu của Phật A-Di-Đà nên tôi thấy cần thiết để nói ra. Tu hành mà lại sợ vất vả,
lại hạ tiện đến nỗi không giám quy mạng Phật thì khác nào như người nông dân
muốn tròng lúa có thu hoạch lại vãi thóc giống vào không trung hay trên cát mà
đòi có thóc vàng sau này thu hoạch?<br />
<br />
Thiết tưởng đến đây không phải tranh luận làm gì thêm nhiều nữa vì trong suốt
Kinh này cả đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni và đức Quán-Thế-Âm, Đại-Thế-Chí, Đại-Hạnh
Phổ-Hiền Bồ-Tát đều nhắc đi nhắc lại sáu chữ Hồng Danh: Nam mô A-Di-Đà Phật.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Niệm bốn chữ A-Di-Đà Phật là chỉ gọi tên Ngài mà thôi, Vậy gọi nhiều chỉ
làm cho Ngài sốt ruột mà thôi.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Phật hỏi gọi tên Ta hoài để làm gì vậy? Sốt
ruột quá! Hãy quy mạng với Ta đi nếu muốn Ta tiếp-dẫn về Cực-Lạc!<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Qua đây chúng ta thấy, nếu chỉ niệm bốn chữ thì không thể thành tựu, chẳng thể
thâm nhập vào y-báo và chánh-báo của Phật A-Di-Đà, không thể giúp hành giả có
trí-tuệ, không thể giúp họ vào định, thực hành giới luật, xả bỏ những dục vọng
thế-gian và có trí noi gương Phật v.v... Vì thế, không thể có cảm ứng đạo giao
để Phật A-Di-Đà tiếp-dẫn về thế giới của Ngài.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Theo tôi, ai nói ta cũng kính, nhưng Ta "y-Kinh, không y- nhân" và
khẳng định không ai bằng Phật vì Ngài ba nghiệp tuyệt đối Thanh-tịnh. Vì thế
tốt hơn hết hãy lấy Kinh điển để đối chứng. Xin bạn hãy lấy Kinh Niệm Phật
Ba-La-Mật để nghiêm cứu và đối chiếu quán xét để nhận ra chân. <o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Nếu trong những lời tâm sự hàn huyên về Phật pháp của tôi trên đây có gì không
phải thì tôi xin thành tâm sám hối với tất cả tấm lòng cầu thị không mệt mỏi.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Chúc các bạn niệm Phật thành tựu Tam muội và cầu chúc mọi người chúng ta kẻ
trước người sau khi lâm chung đều được vãng sinh Tây phương Cực-Lạc, sinh trên
sen báu trong sự thương yêu chăm sóc của Phật A-Di-Đà và các bậc Đại-Sỹ.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal;">Nam mô A-Di-Đà Phật.</b></span><b><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;"> </span></b></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><i style="mso-bidi-font-style: normal;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Hà Lan, ngày 9 tháng 3 năm 2015.<br /></span></i></b><b><i><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Trân trọng: Quảng Tịnh Cư-sỹ</span></i></b></p><p></p>voluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8726509563833692641.post-49552868766263375322022-06-03T09:23:00.002+07:002022-06-26T09:49:42.736+07:00Bộ sách PHẬT HỌC PHỔ THÔNG của HT Thích Thiện Hoa<p style="text-align: justify;"></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: justify;"><b style="text-align: left;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhscXwgj8YCxayDz0g5Te-pJotWrEanFDWCCL09LEeJL2E-RCuaFWfIFEQoBQXeuTqiajrgqQaNSknnSlZWWKg2zIlAR7DLCgJEw2YtjyH6eTZ5mX25H2rEi6JdbZUA7owcQoAZSTxKZOc588rMvUc7Z-lTc_H6kOKKxcx2SH5_M3-RZ7ISwoJoYU4bDQ/s733/phat-hoc-pho-thong.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="453" data-original-width="733" height="198" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhscXwgj8YCxayDz0g5Te-pJotWrEanFDWCCL09LEeJL2E-RCuaFWfIFEQoBQXeuTqiajrgqQaNSknnSlZWWKg2zIlAR7DLCgJEw2YtjyH6eTZ5mX25H2rEi6JdbZUA7owcQoAZSTxKZOc588rMvUc7Z-lTc_H6kOKKxcx2SH5_M3-RZ7ISwoJoYU4bDQ/s320/phat-hoc-pho-thong.jpg" width="320" /></a></div>VLCĐ: </b><span><b>HT Thích Thiện Hoa đã dành cả
cuộc đời mình cho Đạo pháp. Với tấm lòng bao dung hòa ái, nhưng rất cương nghị
trong đường lối mà Ngài vạch ra, dù khó khăn đến mấy cũng quyết thực hiện thành
công. Các tác phẩm của Ngài để lại rất nhiều, là những nấc thang Giáo lý có giá
trị đặt nền tảng học Phật cho Tăng tín đồ.Trong đó có bộ sách Phật Học Phổ
Thông gôm 12 quyển. Xin được giới thiệu sau đây</b></span></div><span style="background-color: white; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="margin: 0px; padding: 0px;"><span style="margin: 0px; padding: 0px;"><br /><span style="color: red; font-family: arial, tahoma, verdana;"><b><span style="font-size: 20px;">Phật Học Phổ Thông<br /></span></b></span></span></span></span><span style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px;"><em style="margin: 0px; padding: 0px;"><span style="margin: 0px; padding: 0px;"><b>Sa Môn Thích Thiện Hoa<br /></b></span></em></span><span style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px;">Nguồn: Tạng Thư Phật Học</span><p></p><img alt="Hòa Thượng: THÍCH THIỆN HOA" src="http://voluongcongduc.com/uploads/image/10-2014/HT-Thich-Thien-Hoa.jpg" style="background-color: white; border: 1px solid rgb(229, 229, 229); display: block; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; height: 679px; margin: 0px auto; max-width: 640px; padding: 1px; text-align: justify; width: 480px;" /><em style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Hòa Thượng: THÍCH THIỆN HOA</strong></em><br style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;" /><br style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;" /><iframe height="680" src="https://docs.google.com/file/d/0BzS1V5qup1R2TTltQ3YzaUF5a1U/preview" style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;" width="99%"></iframe><br style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;" /><strong style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><span style="font-size: 16px; margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-1.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><span style="color: red; margin: 0px; padding: 0px;">Khóa I: Nhân Thừa Phật Giáo</span></a></span></strong></strong><em style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a name="1" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px;"></a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-1.tua.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Lời Nói Đầu</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-1.1.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 1: Ðạo Phật</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-1.2.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 2: Lược Sử Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni </a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-1.3.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 3: Lược Sử Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-1.4.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 4: Quy Y Tam Bảo</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-1.5.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 5: Ngũ Giới </a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-1.6.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 6: Sám Hối </a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-1.7.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 7: Thờ Phật, Lạy Phật, Cúng Phật</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-1.8.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 8: Tụng Kinh, Trì Chú,Niệm Phật </a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-1.9.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 9: Ăn Chay </a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-1.10.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 10: Bát Quan Trai Giới </a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /> </strong></em><br style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;" /><strong style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><span style="font-size: 16px; margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-2.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><span style="color: red; margin: 0px; padding: 0px;">Khóa II: Thiên Thừa Phật Giáo</span></a></span></strong><em style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><span style="font-size: 16px; margin: 0px; padding: 0px;"><a name="2" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px;"></a></span><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-2.1.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 1: Bổn Phận Của Phật Tử Tại Gia </a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-2.2.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 2: Vu Lan Bồn </a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-2.3.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 3: Vô Thường </a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-2.4.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 4: Thiểu Dục Và Tri Túc </a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-2.5.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 5: Nhân Quả </a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-2.6.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 6: Luân Hồi</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-2.7.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 7: Thập Thiện Nghiệp</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-2.8.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 8: Tứ Nhiếp Pháp</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-2.9.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 9: Lục Hòa </a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-2.10.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 10: Tịnh Ðộ </a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-2.11.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 11: Lược Sử Ðức Phật A Di Ðà và 48 Ðại Nguyện </a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /> </strong></em><br style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;" /><span style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 16px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-3.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><span style="color: red; margin: 0px; padding: 0px;">Khóa III: </span></a><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-3.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;"><span style="color: red; margin: 0px; padding: 0px;">Thanh Văn Thừa Phật Giáo</span></a></strong><a name="3" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px;"></a></span><br style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;" /><em style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-3.1.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 1: Khái Niệm Tổng Quát Về Tứ Diệu Ðế</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-3.2.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 2: Khổ Ðế</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-3.3.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 3: Tập Ðế</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-3.4.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 4: Diệt Ðế</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-3.5.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 5 : Ðạo Ðế</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-3.6.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bài Thứ 6 </strong>: <strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Tứ Chánh Cần</strong></a><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-3.7.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 7: Tứ Như Ý Túc</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-3.8.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bài Thứ 8: Ngũ Căn ngũ Lực</strong></a><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-3.9.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 9: Thất Bồ Ðề Phần</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-3.10.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bài Thứ 10: Bát Chánh Ðạo</strong></a><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /> </em><br style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;" /><strong style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><span style="font-size: 16px; margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-4.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><span style="color: red; margin: 0px; padding: 0px;">Khóa IV: </span></a><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-4.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><span style="color: red; margin: 0px; padding: 0px;">Duyên Giác Và Bồ Tát Thừa Phật Giáo</span></a><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-4.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><span style="color: red; margin: 0px; padding: 0px;"></span></a></span></strong><em style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a name="4" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px;"></a><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-4.1.htm#1" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bài Thứ 1</strong>: <strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Quán Sổ Tức</strong></a><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-4.2.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bài Thứ 2</strong>: <strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Quán Bất Tịnh </strong></a><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-4.3.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bài Thứ 3</strong>: <strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Quán Từ Bi </strong></a><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-4.4.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bài Thứ 4</strong>: <strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Quán Nhân Duyên </strong></a><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-4.5.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bài Thứ 5</strong>: <strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Quán Giới Phân Biệt </strong></a><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-lucdo.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bài Thứ 6:</strong> </a><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-lucdo.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Lục Ðộ</strong></a> <br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-4.6.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;">Ðộ thứ nhất: Bố Thí Ba La Mật</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-4.6.htm#1" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Ðộ thứ hai: Trì Giới Ba La Mật</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-lucdo.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bài Thứ 7</strong>: <strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Lục Ðộ (tiếp theo)</strong></a> <br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-4.7.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Ðộ thứ ba: Tinh Tấn Ba La Mật</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-4.7.htm#1" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Ðộ thứ tư: Nhẫn Nhục Ba La mật </a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-lucdo.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bài Thứ 8</strong>: <strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Lục Ðộ (tiếp theo)</strong></a><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-4.8.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Ðộ thứ năm: Thiền Ðịnh Ba La Mật </a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-4.8.htm#1" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Ðộ thứ sáu: Trí Huệ Ba La Mật</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-4.9.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bài Thứ 9</strong>: <strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bốn Món Tâm Vô Lượng </strong></a><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-4.10.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bài Thứ 10</strong>: <strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Ngũ Minh </strong></a><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /> </strong></em><br style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;" /><strong style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><span style="font-size: 16px; margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-5.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><span style="color: red; margin: 0px; padding: 0px;">Khóa V: Lịch Sử Truyền Bá Phật Giáo</span></a></strong></span></strong><em style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a name="5" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px;"></a><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-5.1.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 1: Lịch Sử Phật Giáo Ấn Ðộ </a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-5.2.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 2: Lịch Sử Phật Giáo Trung Hoa </a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-5.3.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 3: Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-5.4.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 4: Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam</a> (Tiếp theo)</strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-5.5.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bài Thứ 5: Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo</strong></a><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-5.6.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 6: Mười Tông Phái Phật Giáo Ở Trung Hoa</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-5.7.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 7: Mười Tông Phái Phật Giáo Ở Trung Hoa</a> (Tiếp theo)</strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-5.8.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 8: Mười Tông Phái Phật Giáo Ở Trung Hoa</a> (Tiếp theo)</strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-5.9.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 9: Vũ Trụ Quan Phật Giáo </a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-5.10.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 10: Nhân Sinh Quan Phật Giáo </a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /> </strong></em><br style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;" /><strong style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><span style="font-size: 16px; margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-6.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><span style="color: red; margin: 0px; padding: 0px;">Khóa VI: Triết Lý Ðạo Phật hay là Ðại Cương Kinh Lăng Nghiêm</span></a></span></strong><em style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a name="6" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px;"></a><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-6.1.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 1: Phần Duyên Khởi</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-6.2.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 2: Bảy Đoạn Phật Hỏi Về Tâm</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-6.3.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 3: A Nan Cầu Phật Dạy Phương Pháp Tu Hành Lần Thứ 2</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-6.4.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 4: A Nan Cầu Phật Chỉ Cái Điên Đảo</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-6.5.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bài Thứ 5: A Nan Nghi Nếu "Cái Thấy" Là Mình Thì Tâm Này Là Ai?</strong></a><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-6.6.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 6: Nước Từ Chơn Tâm Biến Hiện</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-6.7.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 7: Hư Không Từ Chơn Tâm Biến Hiện</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /> </strong></em><br style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;" /><strong style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><span style="font-size: 16px; margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-7.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><span style="color: red; margin: 0px; padding: 0px;">Khóa VII: Triết Lý Ðạo Phật hay là Ðại Cương Kinh Lăng Nghiêm</span></a></span></strong><em style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a name="7" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px;"></a><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-6.8.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 8: Ông Phú Lâu Na Hỏi Phật Hai Câu Quan Trọng</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-6.9.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 9: Phật Dạy Chơn Tâm Phi Tất Cả Tướng</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-6.10.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 10: Phật Dạy Phương Pháp Tu</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-7.11.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bài Thứ 11: Ngài A Nan hỏi Phật: Trói Cột Ở chỗ Nào và Làm Sao Mở được</strong></a><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-7.12.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 12: Ngài A Nan Hỏi Phật Pháp Tu Viên Thông</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-7.13.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bài Thứ 13: Phật Bảo Ngài Văn Thù Lựa Pháp Tu Viên Thông</strong></a><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-7.14.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 14: Phật Dạy Trì Chú Lăng Nghiêm</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /> </strong></em><br style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;" /><strong style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><span style="font-size: 16px; margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-8.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><span style="color: red; margin: 0px; padding: 0px;">Khóa VIII: Kinh Viên Giác</span></a></span></strong><em style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a name="8" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px;"></a><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-8.1.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 1: Chương Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-8.02.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 2: Chương Phổ Hiền Bồ Tát</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-8.3.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 3: Chương Phổ Nhãn Bồ Tát</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-8.4.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 4: Chương Kim Cang Tạng Bồ Tát</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-8.5.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 5: Chương Di Lặc Bồ Tát</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-8.6.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 6: Chương Thanh Huệ Bồ Tát</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-8.7.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 7: Chương Oai Đức Tự Tại Bồ Tát</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-8.8.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 8: Chương Biện Âm Bồ Tát</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-8.9.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 9: Chương Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bồ Tát</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-8.10.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 10: Chương Phổ Giác Bồ Tát</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-8.11.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 11: Chương Viên Giác BỒ Tát</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-8.12.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Bài Thứ 12: Chương Hiền Thiện Thủ Bồ Tát</a></strong></strong></em><br style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;" /><br style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;" /><span style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 16px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-9.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><span style="color: red; margin: 0px; padding: 0px;">Khóa IX: Duy Thức Học Và Nhơn Minh Luận</span></a></strong></strong></span><em style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"> <a name="9" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px;"></a><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-9.lnd.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Lời Nói Đầu</strong></a><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-9.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Tập 1: Luận Đại Thừa Trăm Pháp</strong></a><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-9.02.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Tập 2: Luận A Đà Na Thức</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-9.03.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Tập 3: Duy Thức Tam Thập Tụng Di Giải</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-9.04.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Tập 3: Duy Thức Tam Thập Tụng Di Giải</a> (Tiếp theo)</strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /> </strong></em><br style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;" /><span style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 16px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-10-11.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><span style="color: red; margin: 0px; padding: 0px;">Khóa X và XI: Luận Đại Thừa Khởi Tín, Dịch và Lược Giải</span></a></strong></strong></span><em style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"> </strong><a name="10" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px;"></a><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-10-11.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Phần Mục Lục</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-10-11-1.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Chương 1 và Chương 2</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-10-11-2.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Chương 3: Phần Giải Thích</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-10-11-3.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Chương 3: Phần Giải Thích</a> (Tiếp theo)</strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /> </strong></em><br style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;" /><strong style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><span style="font-size: 16px; margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-12.01htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><span style="color: red; margin: 0px; padding: 0px;">Khóa XII: Kinh Kim Cang</span></a></strong></span></strong><br style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;" /><em style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-12.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Lời Tựa</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-12.2.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Kinh Kim Cang Dịch Nghĩa và Lược Giải</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-12.3.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank">Tâm Kinh Lược Giải</a></strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /></strong></em><p><em style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><a href="http://tangthuphathoc.net/phathoc/phathocphothong-12.4.htm" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;" target="_blank"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Phụ Lục: Một Sự Nghiệp Của Đời Tôi</strong></a></strong></em> </p><p><br /></p>voluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8726509563833692641.post-28597563344101999132022-06-02T08:15:00.012+07:002022-06-05T09:58:25.197+07:00Chân lý trong hận thù khiến có thể làm hạt giống hòa bình<div style="text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; font-weight: bold; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgc3ud0uL_TBnKGusPTnMs4c-JwUU9vZOIIMlgSFHWS9df0QmJLb-NTzOJuMb8qrqd1qFMMHTEOhfmCUNdDcSdtZAG-yw76X9m7_wafmC6XZdQOgcqqeLr_bDSTe_LwO8c282-eT4Xda_8vA3ObGudUdEWv3eBOMv_ZBcwTD0w4L4AETeDHWPF2I6J87w/s320/chan-ly-trong-han-thu-1.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; display: inline !important; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="213" data-original-width="320" height="213" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgc3ud0uL_TBnKGusPTnMs4c-JwUU9vZOIIMlgSFHWS9df0QmJLb-NTzOJuMb8qrqd1qFMMHTEOhfmCUNdDcSdtZAG-yw76X9m7_wafmC6XZdQOgcqqeLr_bDSTe_LwO8c282-eT4Xda_8vA3ObGudUdEWv3eBOMv_ZBcwTD0w4L4AETeDHWPF2I6J87w/w320-h213/chan-ly-trong-han-thu-1.jpg" width="320" /></a></div><b>VLCĐ: Phật Giáo dạy rằng không có hòa bình giữa các quốc gia chừng nào giữa các cá nhân không có sự hòa hợp. Hy vọng rằng những chàng hiệp sĩ can trường mà lại đầy tình thương này đã khám phá ra chân lý trong hận thù, khiến có thể làm hạt giống hòa bình nảy mầm giữa các dòng tộc của họ.<br /></b><span style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="background-color: white;">Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng.</span><span style="background-color: white;"><br /></span><span><span><span style="background-color: white;"><br /></span><span style="font-family: arial, tahoma, verdana;"><span style="font-size: 14px;">Mối hận thù nẩy s</span></span></span></span><a href="http://voluongcongduc.com/nghien-cuu/" style="color: #004175; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration-line: none;">i</a><span style="font-family: arial, tahoma, verdana;"><span style="font-size: 14px;">nh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”</span></span></div><div style="background-color: white; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><span style="font-family: arial, tahoma, verdana;"><span style="font-size: 14px;">Một con suối tại hẻm núi với nước trào dâng giữa hai chàng là cái rào cản duy nhất ngăn cuộc đối đầu bất ngờ cuối cùng này. Họ vừa lớn tiếng chửi rủa lẫn nhau, vừa tìm lối đi xuôi theo dòng suối, kiếm một bãi cát là nơi họ có thể băng ngang qua dòng suối để giết nhau.</span></span><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><span style="font-family: arial, tahoma, verdana;"><span style="font-size: 14px;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhpd2nGAg8pyk0-8gO9ilEIgF-G00U4vnVeIS2NF_ngNC19tp3M4gCQmopA4s3hViZQF0C_6gsjqSlvvLVlim82-NeeU1lzlmMUcVy_KNDRzgnuWrOkNmg2_ea-y9H1ZxX6s_1a5tuH7aPaWf6S25wsEh52UXNoFRw7D385xE5IeiBbSnxnh0hbq7L0tQ/s631/chan-ly-trong-han-thu.jpg" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="631" data-original-width="476" height="320" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhpd2nGAg8pyk0-8gO9ilEIgF-G00U4vnVeIS2NF_ngNC19tp3M4gCQmopA4s3hViZQF0C_6gsjqSlvvLVlim82-NeeU1lzlmMUcVy_KNDRzgnuWrOkNmg2_ea-y9H1ZxX6s_1a5tuH7aPaWf6S25wsEh52UXNoFRw7D385xE5IeiBbSnxnh0hbq7L0tQ/s320/chan-ly-trong-han-thu.jpg" width="241" /></a></div>Bất chợt họ nhìn thấy một chiếc thuyền nhấp nhô trên đó có một bà mẹ và hai bé trai nhỏ đang trôi xoáy theo dòng suối. Một chàng la lớn: “Đây! Hãy bắt lấy sợi dây thừng này và nắm lấy và kéo ở bên phía mi.” Họ cùng nhau kéo được chiếc thuyền tới một bãi cát, tại nơi đó họ khám phá ra người mẹ đã bị chết đuối ở dưới đáy thuyền còn hai đứa nhỏ đang gần chết vì bị dầm nước.</span></span><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><span style="font-family: arial, tahoma, verdana;"><span style="font-size: 14px;">Mỗi chàng chụp một đứa nhỏ và ghì nó sát vào người mình sau khi cởi bỏ áo giáp ra. Rồi vòng tay ôm chặt lấy đứa nhỏ đang run rẩy. Hai chàng võ sĩ đạo sau đó chạy vòng quanh để tăng thêm nhiệt độ trong thân mình và hát dỗ các đứa nhỏ đang gào khóc. Khi các đứa nhỏ đã qua cơn hiểm nghèo, họ nhóm một đống lửa bằng củi trôi dạt lên bờ và chôn cất người mẹ trong lúc hai đứa nhỏ yên ngủ.</span></span><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><span style="font-family: arial, tahoma, verdana;"><span style="font-size: 14px;">Quá mệt sức để đánh nhau, hai chàng ngồi xúm xít bên đống lửa.</span></span><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><span style="font-family: arial, tahoma, verdana;"><span style="font-size: 14px;">“Này, bạn hát như nữ thần,” một chàng nói.</span></span><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><span style="font-family: arial, tahoma, verdana;"><span style="font-size: 14px;">“Còn bạn chạy giống như vũ công,” chàng kia nói.</span></span><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><span style="font-family: arial, tahoma, verdana;"><span style="font-size: 14px;">“May quá bạn lại có sợi dây thừng,” chàng thứ nhất nói.</span></span><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><span style="font-family: arial, tahoma, verdana;"><span style="font-size: 14px;">“Và cũng hên là bạn khám phá ra cái bãi cát,”</span></span><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><span style="font-family: arial, tahoma, verdana;"><span style="font-size: 14px;">Chàng thứ nhì nói. “Này hai gia đình ta sẽ nói sao đây nếu ta thuật lại cho họ nghe là chúng ta đã gặp nhau mà không giết lẫn nhau?”</span></span><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><span style="font-family: arial, tahoma, verdana;"><span style="font-size: 14px;"> </span></span><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><span style="font-family: arial, tahoma, verdana;"><span style="font-size: 14px;">“Mặc xác họ,” chàng thứ nhất nói.</span></span><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><span style="font-family: arial, tahoma, verdana;"><span style="font-size: 14px;">“Đúng vậy!” chàng thứ nhì trả lời.</span></span></div><div style="background-color: white; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><span style="font-family: arial, tahoma, verdana;"><span style="font-size: 14px;"><br /><blockquote>Phật Giáo dạy rằng không có hòa bình giữa các quốc gia chừng nào giữa các cá nhân không có sự hòa hợp. Hy vọng rằng những chàng hiệp sĩ can trường mà lại đầy tình thương này đã khám phá ra chân lý trong hận thù, khiến có thể làm hạt giống hòa bình nảy mầm giữa các dòng tộc của họ.</blockquote></span></span><span style="background-color: #ffffe4; color: #333333; font-family: trebuchet; font-size: 14px; font-style: italic;"></span></div><div style="background-color: white; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><span style="font-family: arial, tahoma, verdana;"><span style="font-size: 14px;"><br /></span></span></div><div style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"> <em style="color: grey; margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Tâm Minh Ngô Tằng Giao</strong></em></div><span style="background-color: white; color: grey; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><em style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">(phỏng dịch theo Zen Fables For Today của Richard McLean)</strong></em></span><div><div style="text-align: justify;"><span style="color: grey; font-family: arial, tahoma, verdana;"><span style="font-size: 14px;"><b><i><br /></i></b></span></span></div><div><span style="background-color: white; color: grey; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><em style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><br /></strong></em></span></div></div>voluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.com1tag:blogger.com,1999:blog-8726509563833692641.post-8696895857432300122022-06-01T09:38:00.005+07:002022-06-10T09:01:09.322+07:00Một số nghi lễ trong Phật giáo Nguyên thủy Theravāda<p style="text-align: justify;"><b itemprop="description" style="color: #333333; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px;"></b></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><b itemprop="description" style="color: #333333; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgkJNTDEcUiXkZd1TYPOu1ArArbceATtmpnJVrv45JHRKtvgEL3siYkV9akl_vXEu3vqLixfr52aOUPR1RZZw6LzyvbB-skebX99a5wlM3-JbLeSg8P1nfcKaiKqsEBerxWbZKUPTdOBR_bPDyHKBrRnlqNCi-kWwbYuBJCpIKNJk1pzQbkzqBF7cF_5A/s1280/Pg-Nguyen-thuy-0.jpg" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="1280" height="180" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgkJNTDEcUiXkZd1TYPOu1ArArbceATtmpnJVrv45JHRKtvgEL3siYkV9akl_vXEu3vqLixfr52aOUPR1RZZw6LzyvbB-skebX99a5wlM3-JbLeSg8P1nfcKaiKqsEBerxWbZKUPTdOBR_bPDyHKBrRnlqNCi-kWwbYuBJCpIKNJk1pzQbkzqBF7cF_5A/s320/Pg-Nguyen-thuy-0.jpg" width="320" /></a></b></div><span itemprop="description" style="color: #333333; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px;"><div style="font-weight: bold; text-align: justify;"><b itemprop="description" style="margin: 0px; padding: 0px;">VLCĐ: Chúng ta không tìm thấy bất cứ trường hợp nào ở trong kinh điển Pāli, ở đó Đức Phật đặt ra những luật lệ và phương cách thực hiện các nghi lễ dành cho người tại gia. Cá nhân mỗi người thực hiện hay không thực hiện các nghi lễ là tùy ý. Có một điều duy nhất mà mỗi người cần phải cân nhắc, đó là việc thực hành nghi lễ của mình không được trái ngược với giáo pháp của Đức Phật.</b></div><div style="font-weight: bold; text-align: justify;"><span style="background-color: white;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="background-color: white;">Chúng ta không tìm thấy bất cứ trường hợp nào ở trong kinh điển Pāli, ở đó Đức Phật đặt ra những luật lệ và phương cách thực hiện các nghi lễ dành cho người tại gia. Cá nhân mỗi người thực hiện hay không thực hiện các nghi lễ là tùy ý. Có một điều duy nhất mà mỗi người cần phải cân nhắc, đó là việc thực hành nghi lễ của mình không được trái ngược với giáo pháp của Đức Phật.</span></div></span><div><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Do vậy, ở nơi sự thiếu vắng những luật lệ dành cho việc thực hiện những nghi lễ trong Phật giáo, cá nhân mỗi người không thể không theo những phong tục địa phương nơi người ấy sống, với điều kiện những phong tục đó không xung khắc với những giáo thuyết của Phật giáo.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Nếu những phong tục hay việc thực hiện các nghi lễ không phù hợp với Phật giáo, thì phương cách thực hiện, thay vì chính nghi lễ, nên được điều chỉnh để thích ứng với giáo pháp, hoặc là nên tìm kiếm một cách thức thực hiện nghi lễ khác.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Người ta mong muốn thực hiện một nghi lễ gì đó khi một đứa trẻ chào đời, hay vào dịp người ta làm đám cưới cho con cái, hay lúc có người thân qua đời. Dưới đây là những cách thức thực hành các nghi lễ trong việc nối kết với những trường hợp được đề cập ở trên, và chúng được cải biên để tất cả những Phật tử có thể chấp nhận.</p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgn4Sl8UqHlECUreJlnJFQrfNuMd3osD3wk32jWAiuNKcq9dE2fnPumnjUQ2roggKCxyTeDS81LuSwWcvsJ_QSjd4lpq0Y6DF-PCLzcxxf3Ru2K4AP5M7vsgX0AYivl-LRSU10CmYCUHxFr_8vYpW-1H8qsLH3GxQhLN5GLFBAqcCrA87JDrMSBVPD3LA/s864/Pg-Nguyen-thuy-1.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="486" data-original-width="864" height="360" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgn4Sl8UqHlECUreJlnJFQrfNuMd3osD3wk32jWAiuNKcq9dE2fnPumnjUQ2roggKCxyTeDS81LuSwWcvsJ_QSjd4lpq0Y6DF-PCLzcxxf3Ru2K4AP5M7vsgX0AYivl-LRSU10CmYCUHxFr_8vYpW-1H8qsLH3GxQhLN5GLFBAqcCrA87JDrMSBVPD3LA/w640-h360/Pg-Nguyen-thuy-1.jpg" width="640" /></a></div><br /><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Lễ đặt tên</strong></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Một vài ngày sau khi một đứa trẻ chào đời, việc tiếp theo là phải đặt cho đứa trẻ một cái tên, một cái tên dễ nghe và có triển vọng. Để thực hiện điều này, người gia chủ mời một vài vị Tỳ-kheo cùng những người khác đến nhà mình, rồi cúng dường thực phẩm và những vật dụng cần thiết khác cho các Tỳ-kheo. Khi cúng dường thực phẩm xong, vị gia chủ nên đặt đứa trẻ trước các Tỳ-kheo, nhận Năm giới (Panca Sila) từ họ và thỉnh cầu họ tụng một vài bản kinh để hộ trì (paritta) và sau đó đặt tên cho đứa trẻ. Theo đó, các Tỳ-kheo sẽ tụng một vài bài kinh, chẳng hạn như kinh Mangala, kinh Ratana, kinh Metta, mà tất cả những bản kinh này được tìm thấy trong Tiểu tụng (Khuddhaka pātha) thuộc Tiểu bộ, và một vài bản kinh khác mà họ nghĩ là phù hợp để tụng đọc vào dịp đó.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Người đừng đầu nhóm Tỳ-kheo sẽ đặt cho đứa trẻ một cái tên. Trong trường hợp người cha muốn người nào đó khác đặt tên cho đứa trẻ, ông có thể yêu cầu một người mà ông muốn, đặt tên. Ông ta tự do chọn người đặt tên, hoặc nếu ông muốn, chính ông có thể chọn một cái tên cho đứa trẻ. Sau khi tụng đọc một vài bài kinh và việc cúng dường hoàn tất, các Tỳ-kheo sẽ rời nhà vị gia chủ. Sau đó vị gia chủ có thể đãi tiệc cho những người mà ông đã mời đến tham gia vào buổi lễ này.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhUcyKaV8Cd8rx2ZR7P8p07MO1JZher4UUOrRd6s4D9vmvVnbquJnWoKhhU5gT0ywwWvP9jp5vznG4HaZgP0RpzZzlWVrdvkc77Dtk5hf6xWQCaAADbt6ZaCJWwvubidTBia5uOqOSsiBAl5PVqvUYS9KV8riPpyuMWxZFrw39WUSUNeXVH1VH_9QnCRQ/s1600/Pg-Nguyen-thuy-3.jpg" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="900" data-original-width="1600" height="180" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhUcyKaV8Cd8rx2ZR7P8p07MO1JZher4UUOrRd6s4D9vmvVnbquJnWoKhhU5gT0ywwWvP9jp5vznG4HaZgP0RpzZzlWVrdvkc77Dtk5hf6xWQCaAADbt6ZaCJWwvubidTBia5uOqOSsiBAl5PVqvUYS9KV8riPpyuMWxZFrw39WUSUNeXVH1VH_9QnCRQ/s320/Pg-Nguyen-thuy-3.jpg" width="320" /></a></div>Ý nghĩa của nghi lễ này là để giúp đứa trẻ lớn lên có một sức khỏe tốt, có một đời sống thịnh đạt và thọ mạng lâu dài. Theo một câu chuyện mang màu sắc huyền thoại, sự ảnh hưởng của việc tụng kinh là để xua đuổi những quỷ thần có thể làm hại hay thậm chí giết hại đứa trẻ. Đã có trường hợp, vào thời Đức Phật, có đứa trẻ nọ được tiên đoán sẽ chết sau bảy ngày khi một ác quỷ được thủ lĩnh của y cho phép ăn thịt đứa trẻ. <p></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Cha mẹ đứa trẻ biết được điều này do một vị ẩn sĩ thân quen với gia đình báo cho biết và vị ẩn sĩ khuyên họ nên tìm đến Đức Phật để thỉnh cầu Ngài cứu lấy đứa trẻ. Thế rồi Đức Phật bảo họ dựng một cái rạp trước nhà và mời tám hoặc mười sáu vị Tỳ-kheo đến tụng kinh liên tiếp trong bảy ngày. Họ đã làm đúng theo những gì Đức Phật khuyên dạy để cứu lấy đứa trẻ. Vào ngày thứ bảy, chính Đức Phật đã đến cái rạp đó, và cũng có một hội chúng lớn chư thiên đầy uy lực có mặt ở đó. Ác quỷ không có cơ hội bắt lấy đứa trẻ vì y không dám đến gần hội chúng chư thiên. Nhờ đó đứa trẻ được cứu mạng và đã sống thọ đến 120 tuổi.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Kết hôn</strong></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Đối với các Phật tử, kết hôn hoàn toàn là chuyện trần tục, và tôn giáo không có điều gì để làm. Không có Tỳ-kheo nào ở những nước theo Phật giáo Theravāda thực hiện những nghi lễ kết hôn cho Phật tử tại gia. Cũng không có những lễ cưới nào được tổ chức tại chùa chiền hay tịnh xá. Chúng được thực hiện tại nơi nào đó tiện lợi hơn là những nơi vừa nói.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Những nghi lễ dành cho kết hôn có thể khác nhau tùy vào địa phương mà người ta sống. Vì kết hôn là chuyện trần tục ngay ở nơi bản chất của nó, người ta tự do làm theo phong tục địa phương hay đất nước mà ở chừng mực nào đó những giáo thuyết của Đức Phật không bị tổn hại. Do đó, lễ cưới không được phép tổ chức trong nhà thờ Thiên Chúa giáo, hay là do một tín đồ Thiên Chúa giáo đứng ra thực hiện. Nơi chốn tốt nhất để thực hiện một lễ cưới là ngay tại nhà của người đó; còn nếu nhà không đủ lớn cho đám cưới thì nên chọn một hội trường hay một nơi nào thích hợp. Đám cưới có thể được cha mẹ của hai bên chỉ đạo, hay do một người lớn tuổi được hai họ kính trọng, hay người nào mà cả hai họ chọn, đứng ra chủ đạo. Hẳn nhiên, sẽ có liên hoan hay tiệc tùng được tự do tổ chức.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Nhưng nếu người ta muốn có hương vị tôn giáo trong kết hôn, không gì tốt hơn là mời một vài vị Tỳ-kheo, một hoặc hai ngày sau lễ cưới, đến nhà và cúng dường thực phẩm cùng những vật dụng thiết yếu cho họ và thỉnh cầu họ khuyên nhủ cho đôi vợ chồng mới cưới. Các Tỳ-kheo sẽ tụng đọc kinh kệ để hộ trì, và một người trong họ sẽ có lời khuyên nhủ đôi vợ chồng này. Chính Đức Phật cũng đã từng khuyên dạy những cô gái sắp kết hôn.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Một lần, Đức Phật được mời đến nhà một vị tín chủ có tên là Uggaha để thọ thực. Khi Đức Phật thọ thực xong, Uggaha thỉnh cầu Ngài thuyết một bài pháp để khuyên nhủ họ. Thế rồi Đức Phật đã giảng dạy cho họ những hành xử đối với chồng của họ.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Trong bài kinh Singala nổi tiếng thuộc Trường bộ, Đức Phật đã đặt ra những bổn phận cho người chồng và người vợ đối với nhau. Những bổn phận này nên được nói cho những người vừa mới kết hôn để họ có thể sống một đời sống gia đình hạnh phúc.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjhaiv29TRZF23zCUKDM7vxbY_VzrxBJvelTBlYbwF7bhuMStIH6PpYyTwxprFm2b78rhRuJ9P5HKXQGZEsYORF94eUFoP4_urVsxUGITXyEqIDn89hI0w0t8Hoknv_gUqfXBWeKEcHIMjqQDnu7o7UpXJOaObBVQdpgYg-HIZOIgmFl6-vkH2GcJ8tFQ/s881/Pg-Nguyen-thuy-2.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="496" data-original-width="881" height="360" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjhaiv29TRZF23zCUKDM7vxbY_VzrxBJvelTBlYbwF7bhuMStIH6PpYyTwxprFm2b78rhRuJ9P5HKXQGZEsYORF94eUFoP4_urVsxUGITXyEqIDn89hI0w0t8Hoknv_gUqfXBWeKEcHIMjqQDnu7o7UpXJOaObBVQdpgYg-HIZOIgmFl6-vkH2GcJ8tFQ/w640-h360/Pg-Nguyen-thuy-2.jpg" width="640" /></a></div><br /><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bổn phận của một người vợ là:</strong></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">1. Làm tốt công việc gia đình (hoặc bảo người khác làm) không chậm trễ.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">2. Vui vẻ với bà con họ hàng hai bên bằng việc cư xử hòa nhã và bằng việc gửi quà và lời thăm hỏi, v.v... đến họ.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">3. Tránh làm và thậm chí tránh những suy nghĩ tà hạnh về người đàn ông khác.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">4. Khéo giữ gìn những gì mà chồng đã dành dụm được.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">5. Có sự khéo léo và sốt sắng đối với những gì mà cô phải làm.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bổn phận của một người chồng là:</strong></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">1. Đối xử với vợ bằng tất cả lòng thương yêu.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">2. Tránh thái độ gia trưởng.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">3. Tránh làm việc tà hạnh với người nữ khác.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">4. Cho phép vợ làm những gì mà cô thấy thích (những công việc gia đình khác nhau).</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">5. Sắm cho vợ y phục và đồ trang sức tùy theo vị trí của mình ở trong đời sống.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Những bổn phận này được đặt ra hơn 2.500 năm trước, tuy nhiên chúng vẫn thích hợp với thời hiện đại. Đây là những bổn phận mà nếu thực hiện một cách đúng đắn, sẽ giúp cho đôi vợ chồng hạnh phúc và thịnh vượng. Có những lời khuyên khác mà người cha của Visakha đã dành cho cô, trước khi gả cô về nhà chồng. Visakha về sau trở thành người nữ đệ tử tại gia nổi tiếng nhất của Đức Phật.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Tang lễ</strong></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Để hiểu ý nghĩa tang lễ do các Phật tử thực hiện, trước hết cần phải hiểu triết học làm nền tảng cho vấn đề này. Thực hiện tang lễ mà không có sự hiểu biết về triết học này sẽ không đem lại lợi ích cho cả người chết lẫn người thực hiện nó. Triết học cực kỳ cốt tủy đối với nghi lễ này là như sau:</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Theo Phật giáo, một người sau khi chết, thông thường có thể tái sanh vào một trong 6 cảnh giới. Sự tái sanh của người này phụ thuộc vào những hành vì tốt hay xấu mà vị này thực hiện trong đời hiện tại, hay trong một số trường hợp bởi những hành vi được thực hiện trong những đời sống quá khứ. Nếu vị này là một người đức hạnh, hay nếu đã làm những việc thiện trong suốt cuộc đời của mình, vị này có thể sanh về thế giới chư thiên, nơi vị này sẽ hưởng được những phúc lạc cõi trời. Còn nếu vị này xấu xa trong kiếp sống này, sẽ sanh vào một trong bốn cảnh giới ác (ác thú) mà theo tiếng Pāli là Apaya, bao gồm Địa ngục, Súc sanh, Ngạ quỷ (Peta) và A-tu-la (Asura). Vị này sẽ chịu những khổ đau, hình phạt và đói khát… khác nhau ở trong những cảnh giới đó.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Lại nữa, theo luật Nghiệp báo của Phật giáo, cho dù một người đã thực hiện những việc làm tốt, cũng không thể xác quyết một cách chắc chắn nơi người này sẽ tái sanh, là ở trong những cảnh giới cao hay ở trong những cảnh giới khổ đau. Thông qua nghiệp đã tạo tác trong những đời quá khứ và những nghiệp ấy đến thời trổ quả, người ta có thể sanh vào một cảnh giới khổ đau. Do đó, chúng ta không thể biết chắc chắn là một người sẽ tái sanh về đâu sau khi mệnh chung.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Nếu một người tái sanh vào Thiên giới (Deva), chúng ta không thể giúp gì cho người này ở nơi cảnh giới mới. Chúng ta cũng không thể làm được gì trong trường hợp vị này bị đọa vào Địa ngục, cõi Súc sanh hay cõi A-tu-la. Nhưng nếu vị này tái sanh vào thế giới Ngạ quỷ, chúng ta có thể giúp được. Làm một ngạ quỷ thì không có đủ thức ăn để ăn, không đủ nước để uống và đủ áo quần để che thân. Nó luôn luôn đói khát và luôn thiếu thốn tất cả những thứ cần thiết của cuộc sống. Để giúp những chúng sanh như vậy mà chúng ta thực hiện những nghi lễ vào lúc hoặc sau tang ma. Nhưng do vì chúng ta có thể không bao giờ biết nơi một người chết sẽ tái sanh, chúng ta thực hiện những lễ nghi tang ma bất cứ khi nào cái chết xảy ra, để trong trường hợp người chết sinh vào cõi Ngạ quỷ, thì ở đó người chết có thể có được lợi ích từ nghi lễ mà chúng ta thực hiện; và thậm chí nếu người ấy tái sanh vào cảnh giới nào đó khác, chúng ta vẫn có thể tạo được phước đức cho chính mình.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Nghi lễ nên được thực hiện theo cách này:</strong></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Nên thỉnh mời các Tỳ-kheo đến nhà có người qua đời, hay mời đến nghĩa địa. Xác người qua đời nên được đặt trước các Tỳ-kheo. Thân nhân sau đó nên vân tập lại và thọ nhận Ngũ giới từ chư Tỳ-kheo. Sau đó họ nên trao cho các Tỳ-kheo một thứ gì đó từ người qua đời, thường là một mảnh vải, và sau đó họ nên mời người đã qua đời đến nhận phần phước đức từ việc làm phước bằng cách hoan hỷ với việc làm phước đó. Nếu người chết (hương linh) đến được và hoan hỷ với việc làm phước đó, sẽ thốt lên lành thay, lành thay! Và ngay lúc đó, vị này sẽ thoát khỏi cảnh giới khổ đau đã bị đọa vào và sẽ hưởng được y phục, đồ trang sức, nơi ở, v.v.. thuộc cõi trời, và vị này sẽ biết ơn những người thân của mình.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Bảy ngày sau khi chết, cũng nên cúng dường thực phẩm cho các Tỳ-kheo. Những thủ tục tương tự cũng nên được lặp lại ở đây, và nên mời người quá vãng đến để nhận phước đức thông qua việc hoan hỷ với việc làm phước.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Kết qua của việc cúng dường thực phẩm này là người chết có thể hưởng được thực phẩm thuộc cõi trời. Như vậy, nói tóm lại, nghi lễ liên quan đến cái chết của một người nên được thực hiện hai lần: lần thứ nhất tại lúc an táng hay hỏa thiêu, và lần thứ hai là bảy ngày sau cái chết. Cả hai lần nên được thực hiện với mục đích giúp người quá vãng, nếu vì một vài nghiệp xấu mà người này sanh vào thế giới Ngạ quỷ.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Pattidana và Pattanumodana</strong></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Mời người khác đến nhận phần phước đức thông qua việc hoan hỷ với những việc làm phước thì việc làm đó được gọi là Pattidana (hồi hướng phước đức có được); còn hoan hỷ với việc làm phước do người khác thực hiện cũng là một việc làm phước và được gọi là Pattanumodana (hoan hỷ với phước đức có được nhờ người khác).</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Bên cạnh, phước đức của bản thân chúng ta không giảm đi mặc dù nó được chia sẻ với người khác, như ánh sáng của một ngọn nến không giảm đi cho dù có những ngọn nến khác được châm từ nó. Đó là tại sao tất cả Phật tử khi làm những việc phước thiện, họ mời tất cả những chúng sanh khác chia sẻ phần phước đức thông qua việc hoan hỷ với việc làm phước đó.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Sự khác nhau giữa việc cúng dường thông thường và cúng dường được thực hiện vì lợi ích của người quá vãng</strong></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Nếu việc cúng dường thông thường được thực hiện chính yếu vì lợi ích của chính người bố thí, thì lợi ích của người khác, người hoan hỷ với việc cúng dường và nhờ đó nhận được phước đức, chỉ là một quan tâm thứ yếu; trong khi việc cúng dường được thực hiện tại hay ở nơi sự nối kết với tang ma thì chính yếu vì lợi ích của người đã quá vãng, và lợi ích của người bố thí chỉ là một vấn đề thứ yếu.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Bên cạnh, trong trường hợp cúng dường thông thường, không nhất thiết rằng người bố thí và người nhận phước nhận lấy lợi ích trực tiếp; trong khi trong trường hợp cúng dường được thực hiện vì người chết, điều tuyệt đối cần thiết là họ nên hoan hỷ với việc cúng dường để có lợi ích trực tiếp, tức là có được y phục, đồ trang sức, nơi ở, v.v… thuộc cõi trời.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Ba điều kiện cốt tủy của việc cúng dường được thực hiện vì lợi ích của người quá vãng</strong></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Ba điều kiện này là:</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">1. Người bố thí phải thực hiện việc cúng dường cốt vì lợi ích của người đã chết, và cần nói “xin hồi hướng phước báo cúng dường này đến với người thân của tôi”.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">2. Người nhận cúng dường phải là một người giới đức.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">3. Chính người chết phải hoan hỷ và thể hiện sự cảm kích với việc cúng dường.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Điều kiện đầu tiên không ngăn cản người bố thí mời những thân quyến đã quá vãng khác và tất cả những chúng sanh khác hoan hỷ với việc cúng dường (tức là ngoài việc hồi hướng cho người quá vãng mà mình thực hiện việc cúng dường chính vì người ấy, cũng có thể hồi hướng phước cho những người thân quá vãng khác), để nhờ đó họ có thể nhận phần phước đức.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Liên quan đến điều kiện thứ hai, có trường hợp một ngạ quỷ, không nhận được lợi ích qua ba sự cúng dường được thực hiện liên tiếp cho mình nên kêu lên “con người xấu ác này đã ăn cắp của tôi!” (Tức là, nếu đồ dâng cúng được dâng cho một người đức hạnh, ngạ quỷ này sẽ trực tiếp nhận được những lợi ích. Nhưng do vì thân nhân dâng cúng cho người thiếu đức hạnh, nên người chết không nhận được phước, bởi người thiếu đức hạnh đã “ăn cắp” hết).</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Tuy nhiên, điều kiện thứ hai cốt yếu vì mục đích đặc biệt là làm cho người chết được lợi ích trực tiếp qua việc hoan hỷ với việc cúng dường. Sự bố thí không cần có đối tượng đặc biệt có thể được thực hiện đối với bất cứ chúng sanh nào, dù là tốt hay xấu. Ngay cả việc cho một con chó chút ít thức ăn cũng là một việc làm phước; người bố thí theo đó sẽ nhận được lợi ích; và người chia phần sẽ được lợi ích vì sự hoan hỷ, mặc dầu lợi ích ở trong trường hợp này có thể không trực tiếp, và số lượng phước đức của việc cúng dường gia tăng với đức hạnh không chỉ của người nhận mà cũng của người bố thí.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Việc thực hiện lễ tang này, hay nói cách khác, việc bố thí và hồi hướng phước đức cho người đã khuất là bổn phận của mỗi người thân. Dù là gần hay xa, khi người ta qua đời và tái sanh vào trong thế giới Ngạ quỷ, họ luôn hy vọng cơ hội để thốt lên từ “lành thay!” (sadhu), tức là hoan hỷ với việc bố thí được người thân thực hiện vì lợi ích của người chết này.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Đối với con cái, bắt buộc họ phải thực hiện tang lễ vào lúc cha mẹ họ qua đời. Ước muốn con cái sẽ thực hiện nghi lễ như vậy là một trong các lý do khiến các bậc cha mẹ muốn có con cái. Đức Phật nói trong kinh Tăng chi: “Đây là năm điều, này các Tỳ-kheo, các bậc cha mẹ mong một người con trai sinh vào trong gia đình. Những gì là năm? Nó sẽ hỗ trợ và chăm sóc chúng ta khi chúng ta về già, và lo hậu sự cho chúng ta; nó sẽ làm cho chúng ta những gì phải được làm; truyền thống của chúng ta sẽ được kéo dài (nhờ vào nó); nó sẽ thừa hưởng tài sản thừa kế; và nó sẽ dâng cúng cho chúng ta và sẽ hồi hướng phước đức cho chúng ta khi chúng ta qua đời.” Làm việc phước và hồi hướng phước đức cho cha mẹ đã quá vãng cũng là một trong năm bổn phận của người con trai hay con gái đối với cha mẹ của mình.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Kết luận, nên lưu ý rằng, chỉ những nghi lễ nào phù hợp với Phật giáo mới được phép. Điều quan trọng đối với một Phật tử là rằng, khi thực hiện các nghi lễ, cẩn trọng không đi đến nương nhờ vào các tôn giáo hay những vị thần thánh khác, khiến rời xa Tam bảo Phật - Pháp - Tăng. Nếu việc quy y vào Tam bảo bị đánh mất, vị này không còn là một Phật tử.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><strong style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">S.B. Silanandabhivamsa - Nghiệp Đức</strong><span style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; text-align: justify;"> </span><em style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">dịch </em><span style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; text-align: justify;">(NSGN </span><div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: arial, tahoma, verdana;"><span style="font-size: 14px;"><br /></span></span></div><div><span style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; text-align: justify;"><br /></span></div></div></div>voluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8726509563833692641.post-26956881799035569042022-05-31T07:56:00.004+07:002022-06-08T09:10:33.338+07:00Tìm về hạnh phúc bên trong<p style="text-align: justify;"><b></b></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><b><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg461wor_t_18qab8vzSp2Nze7ofNU3ekoWOhXzA0TssXSfreT_bvsN7cYnVG_MPrhVYcD-Zde8kgMyjHhBsvdlYv_uryaLWXZ1eUxadDQXAKLtHSx1uJ5zmQK5s1wxTQMHIVHTrHQsTYBU0mplrWasxlCO0QaZtX5RJto63pu3-gMdzRmKKaj1H3hlVA/s526/Tim-hanh-phuc-ben-trong.jpg" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="526" data-original-width="526" height="320" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg461wor_t_18qab8vzSp2Nze7ofNU3ekoWOhXzA0TssXSfreT_bvsN7cYnVG_MPrhVYcD-Zde8kgMyjHhBsvdlYv_uryaLWXZ1eUxadDQXAKLtHSx1uJ5zmQK5s1wxTQMHIVHTrHQsTYBU0mplrWasxlCO0QaZtX5RJto63pu3-gMdzRmKKaj1H3hlVA/s320/Tim-hanh-phuc-ben-trong.jpg" width="320" /></a></b></div><div style="text-align: justify;"><b>VLCĐ: Hãy hướng ánh mắt thông minh về phía mình để nhìn rõ khuyết điểm và sai lầm của bản thân, một chút cũng không bỏ qua. Ngược lại, hãy dùng ánh mắt dại khờ để nhìn người khác, không thấy đúng sai được mất của họ, coi mình giống như Đường Tăng, không bao giờ nhìn thấy yêu tinh và người xấu.</b></div><div style="text-align: justify;">- Trường dạy cho ta nhiều điều nhất đó là trường đời .</div><div style="text-align: justify;">- Nơi đáng đi du lịch tham quan nhất là nội tâm của chính mình .</div><div style="text-align: justify;">- Người bạn thân, cần phải thấu hiểu nhất là hơi thở vào và hơi thở ra chính mình.</div><div style="text-align: justify;">- Nếu cần phải chiến thắng hãy tự chiến thắng cái tâm ưa chiến thắng.</div><div style="text-align: justify;">- Nếu cần vứt bỏ, cái cần phải vứt bỏ đi trước nhất là cái Tôi. (Tự ngã)</div><div style="text-align: justify;">- Khi muốn tìm một người thay đổi được cuộc đời bạn, hãy nhìn vào gương.</div><div style="text-align: justify;">- Sự khác biệt duy nhất giữa một ngày tốt đẹp và một ngày tồi tệ nằm ở chính thái độ của bạn.</div><div style="text-align: justify;">- Nếu khát khao đến sự giàu sang, không có điều gì vĩnh hằng bằng sự giàu sang của Trí tuệ và Đức hạnh.</div><div style="text-align: justify;">- Làm người nên một nửa thông minh, một nửa dại khờ.</div><div style="text-align: justify;">Hãy hướng ánh mắt thông minh về phía mình để nhìn rõ khuyết điểm và sai lầm của bản thân, một chút cũng không bỏ qua.</div><div style="text-align: justify;">Ngược lại, hãy dùng ánh mắt dại khờ để nhìn người khác, không thấy đúng sai được mất của họ, coi mình giống như Đường Tăng, không bao giờ nhìn thấy yêu tinh và người xấu.</div><div style="text-align: justify;">Có những chuyện dù trong tâm biết rõ nhưng cũng không thể nói ra. Vì nói ra, tất sẽ có tổn thương, không nói chính là cách làm khoan dung vậy!</div><div style="text-align: justify;">- Tìm về hạnh phúc bên trong</div><div style="text-align: justify;">Bên ngoài hạnh phúc vốn không thường hằng.</div><b><div style="text-align: justify;"><b><i>Tiếng Lòng</i></b></div><i><div style="text-align: justify;"><b><i>(Bài viết này có thể chia sẻ không cần xin phép. Xin vui lòng giữ lại nguồn, không chỉnh sửa.)</i></b></div><div style="text-align: justify;"><b><i>Namo Buddhaya</i></b></div></i></b><p style="text-align: justify;"><span face=""Segoe UI Historic", "Segoe UI", Helvetica, Arial, sans-serif" style="background-color: white; color: #050505; font-size: 15px; white-space: pre-wrap;">
</span></p><p style="text-align: justify;"><span face=""Segoe UI Historic", "Segoe UI", Helvetica, Arial, sans-serif" style="background-color: white; color: #050505; font-size: 15px; white-space: pre-wrap;"><br /></span></p>voluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8726509563833692641.post-91443447667636562732022-05-20T08:42:00.021+07:002022-06-08T09:25:50.392+07:00Lược Giải Kinh A Di Đà - HT Trí Quảng<p></p><div style="text-align: left;"><b><span style="text-align: justify;">VLCĐ: Kính mời đại chúng cùng nghe phần đọc tập sách: </span>Lược Giải Kinh A Di Đà của HT Thích Trí Quảng do Nhà xuất bản: Hồng Đức phát hành qua giọng đọc của Tuấn Anh.</b><br /><br /></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgFJNtBFo1FpLLhiYTJYxGfkVcIuAsHIzfrFa69eA4jnjNsIRe0IT0pzhG9d3DHLq0CuNPKTNHCsEwOrnubYSq6WkQxDczMwHQ-XxLuRjxFPxwaq_DKlISS8AAVEi1Ym7L1DYDolyjKZprbTq8HqGdH23DekjObfh4IdTB6RjJWWd-hzJnj6uwiLDtqkA/s320/ht-thich-tri-quang-1small.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="320" data-original-width="320" height="320" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgFJNtBFo1FpLLhiYTJYxGfkVcIuAsHIzfrFa69eA4jnjNsIRe0IT0pzhG9d3DHLq0CuNPKTNHCsEwOrnubYSq6WkQxDczMwHQ-XxLuRjxFPxwaq_DKlISS8AAVEi1Ym7L1DYDolyjKZprbTq8HqGdH23DekjObfh4IdTB6RjJWWd-hzJnj6uwiLDtqkA/s1600/ht-thich-tri-quang-1small.jpg" width="320" /></a></div><span style="text-align: justify;"><audio controls="">
<source src="https://ph.tinhtong.vn/ftp/MP3/-%20T%20Tri%20Quang/L%C6%B0%E1%BB%A3c%20Gi%E1%BA%A3i%20Kinh%20A%20Di%20%C4%90%C3%A0%20-%20HT%20Tr%C3%AD%20Qu%E1%BA%A3ng/01%20T%E1%BB%95ng%20Lu%E1%BA%ADn.mp3" type="audio/mpeg"></source>
</audio><div style="text-align: justify;">Khi đại chúng đã niệm ba
việc quan trọng của phật di đà là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang và Vô Lượng Công
Đức mới nghĩ tại sao đức Di Đà được như vậy và A Nan đại diện chúng hội hỏi
Phật ý này. Phật Thích Ca nói về hành trạng của phật Di Đà, tức là nhân hạnh
của ngài khi tu bồ tát hạnh. Phải có quá trình tu, không thể tự nhiên mà có
quả. Đức Di Đà trong kiếp cuối cùng, làm vua đầy đủ phước đức là Chuyển Luân
Thánh Vương khác với vua đầy tham vọng. Vua có 3 hạng: Một gọi là bá vương hay
ác vương là vua hay chánh thể cai trị dân bằng sắt thép, quyền uy buộc người
phải theo, vua như thế là nhà độc tài, một đời không trọn. Họ thường giết người
để de dọa như vua Lê Long Đỉnh nhốt người chống đối vô cũi rồi thả xuống sông
cho chết hay xô xuống chuồng cọp cho nó ăn. Ông này làm vua được 3 năm thôi vì
ác quá, bị tổn phước, không thọ không tồn tại lâu dài được. Hạng vua thứ 2 dùng
luật pháp trị dân, tức có nguyên tắc sống cho tất cả mọi người chấp nhận và đi
theo, nay gọi là hiến pháp và pháp và pháp luật. Sống theo pháp luật nhà nước
thì yên ổn, sống trái pháp luật thì không yên, nghĩa là dùng pháp luật trừng
trị. Hạng vua thứ 3 dùng đức trị dân, gọi là bất trị dân tùng. Vị vua này có
đầy đủ phước đức, phước của thánh vương lớn nên sanh ra là nước thái bình. Vua
ác ra đời thì gặp thiên tai, dịch bệnh đưa đến tình cảnh dân chúng nghèo khổ,
trộm cướp. Quan sát một số nước văn minh, chúng ta cũng thấy rõ điều này. Ở
Nhật, khi nào một thủ tướng lên nắm quyền, mà trong nước lộn xộn, họ từ chức,
vì nghĩ họ không có phước nên không làm được, người không theo, người chống đối
không hợp tác. Có một lần, máy bay quân sự đụng máy bay dân sự, bộ trưởng quốc
phòng Nhật đã từ chức, vì mới lên mà đã có tai nạn lớn xảy ra, người có phước
làm gì cũng tốt, hoặc đất nước được thái bình, xấu trở thành tốt. Chúng ta thấy
quá trình hành bồ tát đạo của phật A Di Đà trong các bộ kinh đại thừa, theo đó
từ thuở quá khứ xa xưa, ngài làm chuyển luân thánh vương, tức vua không có thủ
đoạn. Đức A Di Đà làm vua không hứa hẹn hão huyền, ngài nói ít nhưng làm nhiều,
lắng nghe sự phê phán của người về ngài như thế nào, theo đó mà sửa đổi nên trở
thành người thánh thiện là thánh vương và ngài cũng lắng nghe yêu cầu của người
dân để đáp ứng lợi ích của họ. Nghĩ đến phật Di Đà, chúng ta phải học tấm gương
của ngài để sửa đổi mình. (Hạnh trạng của Đức Phật A Di Đà)</div></span><p></p><p></p>voluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8726509563833692641.post-10579974419133806172022-05-17T07:44:00.001+07:002022-06-07T07:38:04.787+07:00Quá khứ chúng ta làm ác rồi - Bài giảng HT Thái Hòa<div>Bài giảng của HT: Thích Thái Hòa</div><div>Quá khứ chúng ta làm ác rồi nói nhắm mắt lại nói đừng nhìn quá khứ nữa liệu có được chăng...</div><div dir="auto" style="animation-name: none; font-family: inherit; transition-property: none;"><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; font-size: 15px; white-space: pre-wrap;">Nguồn: facebook.com/ngoigialam</span></div><div class="cxmmr5t8 oygrvhab hcukyx3x c1et5uql o9v6fnle ii04i59q" style="animation-name: none; background-color: white; color: #050505; font-family: "Segoe UI Historic", "Segoe UI", Helvetica, Arial, sans-serif; font-size: 15px; margin: 0.5em 0px 0px; overflow-wrap: break-word; transition-property: none; white-space: pre-wrap;"><div dir="auto" style="animation-name: none; font-family: inherit; transition-property: none;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjeJyktTiMQ3IepmfeRHVv9CV8hU4ofEvVAUpIPft1ilpjCaTNp2inz4qOOc9_s-WytZblIIfyhMEhhWtnLN9iHWdszYsrDFKIJfvjX8jhMzJdg0IBMsc_vLK36Nyn4lwuuZx8W-Z196YJvxTAU6ZHP2wfQwQoof_YjVlL4ZGeLRZEPn1IkUPwVvrseUw/s360/HT-Thai-Hoa.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="204" data-original-width="360" height="181" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjeJyktTiMQ3IepmfeRHVv9CV8hU4ofEvVAUpIPft1ilpjCaTNp2inz4qOOc9_s-WytZblIIfyhMEhhWtnLN9iHWdszYsrDFKIJfvjX8jhMzJdg0IBMsc_vLK36Nyn4lwuuZx8W-Z196YJvxTAU6ZHP2wfQwQoof_YjVlL4ZGeLRZEPn1IkUPwVvrseUw/s320/HT-Thai-Hoa.jpg" width="320" /></a></div></div><div dir="auto" style="animation-name: none; font-family: inherit; transition-property: none;"><br /></div><div dir="auto" style="animation-name: none; font-family: inherit; text-align: center; transition-property: none;"><iframe allow="autoplay; clipboard-write; encrypted-media; picture-in-picture; web-share" allowfullscreen="true" frameborder="0" height="314" scrolling="no" src="https://www.facebook.com/plugins/video.php?height=314&href=https%3A%2F%2Fwww.facebook.com%2Fngoigialam%2Fvideos%2F371167254974489%2F&show_text=false&width=560&t=0" style="border: none; overflow: hidden;" width="560"></iframe></div><div dir="auto" style="animation-name: none; font-family: inherit; transition-property: none;"><br /></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><br /></div></div>
voluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8726509563833692641.post-68381881253140790852022-05-12T10:22:00.027+07:002022-06-10T08:59:31.592+07:00Người Lữ Khách - Pháp thoại của HT Tịnh Không<p style="text-align: justify;"><b itemprop="description" style="color: #333333; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px;"></b></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: left;"><b itemprop="description" style="color: #333333; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px;"><b itemprop="description" style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiMr78-M59SxnHTQZb6vQGvLzD6LvYxpJKT-V5cQCTswcxskmniddlSLnXxxFY8KG0AkAzu1691zvHvcxmX7pfQW5-_GTcLZjU5c-yo-AzpnlgwHQB54EdZuIb516pevuMcX70Bikezhgawtlb9QOLKXUQB4DaexsAB7cTys3ak3xlTminsPadg3ZMCfQ/s420/HT-Tinh-Khong1.jpg" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="270" data-original-width="420" height="206" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiMr78-M59SxnHTQZb6vQGvLzD6LvYxpJKT-V5cQCTswcxskmniddlSLnXxxFY8KG0AkAzu1691zvHvcxmX7pfQW5-_GTcLZjU5c-yo-AzpnlgwHQB54EdZuIb516pevuMcX70Bikezhgawtlb9QOLKXUQB4DaexsAB7cTys3ak3xlTminsPadg3ZMCfQ/s320/HT-Tinh-Khong1.jpg" width="320" /></a></div><div style="text-align: justify;"><b itemprop="description" style="margin: 0px; padding: 0px;">VLCĐ: Không nên quá coi trọng, con người sống trên đời này có mấy mươi năm, cũng giống như lữ khách vậy, ở vài ngày rồi đi thôi, hà tất phải quá coi trọng cái thế giới Ta bà này chứ, hà tất phải kết oán thù với tất cả mọi người. Chúng ta phải thường nên nghĩ rằng: “Ta là lữ khách, mấy ngày rồi lại ra đi, bây giờ ta hãy chung sống thật vui vẻ với tất cả mọi người”</b></div><div style="text-align: justify;"><span style="background-color: white;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="background-color: white;">HÔM NAY BẠN ĐOẠT TIỀN TÀI CỦA NGƯỜI TA, TƯƠNG LAI BẠN PHẢI TRẢ LẠI. BẠN HẠI MẠNG CỦA NGƯỜI TA, THÌ TƯƠNG LAI PHẢI ĐỀN MẠNG LẠI. NHÂN QUẢ LÀ THÔNG BA ĐỜI, NÊN KHÔNG AI THIẾU ĐƯỢC CỦA AI CẢ.</span></div></b></b></div><div style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><br /></div>Chúng ta ở trong thế gian này quan sát tỉ mỉ quan hệ giữa con người với nhau, báo ân thì ít mà báo oán thì nhiều, cha con người nhà cũng không ngoại lệ. Quan hệ vợ chồng hiện nay thử xem, khắp nơi trên thế giới, tỉ lệ ly hôn cao cỡ nào? Mới đầu chẳng phải rất tốt đó sao? Qua mấy ngày thì liền trở mặt, liền biến thành oan gia đối đầu rồi. Cho nên, chúng ta phải luôn nhìn cho rõ ràng, tất cả các mối quan hệ đều là giả chứ không phải thật. Không nên quá coi trọng, con người sống trên đời này có mấy mươi năm, cũng giống như lữ khách vậy, ở vài ngày rồi đi thôi, hà tất phải quá coi trọng cái thế giới Ta bà này chứ, hà tất phải kết oán thù với tất cả mọi người. Chúng ta phải thường nên nghĩ rằng: "Ta là lữ khách, mấy ngày rồi lại ra đi, bây giờ ta hãy chung sống thật vui vẻ với tất cả mọi người", như vậy chẳng phải mọi vấn đề đều được giải quyết cả rồi sao? Tất cả những điều gì làm ta khó chịu, thảy đều tha thứ hết cho họ, không nên kết oán ở trong lòng, có như vậy thì mới tự tại.<br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><br style="margin: 0px; padding: 0px;" />Nếu như chúng ta hiểu rõ được đạo lý tất cả những sự việc trên thế gian này đều có báo đền lẫn nhau cả, thì tâm của bạn tự nhiên sẽ định thôi.<br /><br /></div><div style="background-color: white; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><div style="text-align: center;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiwDVcHX9nAm1WCs-fL0Q-Ko9hk6u1XMBzJTleYzDx7o9T0WUkFtxiJTqBqow7UAkWINRffiC6AK1HqRGpUFTsTLAHecBIHxNq8w4Iy9nwwW5UbVAVvkkAlX2i0PgbGRedmLZZrTwfaXsDrQZPc8OfqhmVpfMJpCHYuNX3xWbf9io3QPDSbqcyEOnAqmg/s720/HT-Tinh-Khong.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="672" data-original-width="720" height="299" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiwDVcHX9nAm1WCs-fL0Q-Ko9hk6u1XMBzJTleYzDx7o9T0WUkFtxiJTqBqow7UAkWINRffiC6AK1HqRGpUFTsTLAHecBIHxNq8w4Iy9nwwW5UbVAVvkkAlX2i0PgbGRedmLZZrTwfaXsDrQZPc8OfqhmVpfMJpCHYuNX3xWbf9io3QPDSbqcyEOnAqmg/s320/HT-Tinh-Khong.jpg" width="320" /></a></div><br /></div><span style="font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px;">Ví dụ: chúng ta ở trong xã hội bị người khác lừa, bị thiệt thòi quá nhiều, kỳ thật không có sự việc này. Tại sao vậy? Nó có báo đền mà. Ngày hôn nay họ lừa gạt bạn, chiếm tiện nghi của bạn, thì tương lai họ sẽ phải trả lại đầy đủ tất cả mọi thứ mà họ đã chiếm của bạn.</span><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><span style="font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px;">Do đó, chắc chắn không có ai là người bị thiệt thòi, cũng chắc chắn không có người nào là người đi chiếm lợi của người khác, không có. Bạn đoạt tiền tài của người ta, thì tương lai bạn phải trả lại. Bạn hại mạng của người ta, thì tương lai phải đền mạng. Nhân quả thông 3 đời, nên không ai thiếu ai được.</span><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><span style="font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px;">Cho nên, cái chân tướng sự thật này thật sự thông đạt rồi, thì tiền tài ta cứ để ở đó, chẳng cần trông nom đến, người ta lấy đi thì tuỳ họ. Nếu thật sự là của tôi, hôm nay bạn lấy đi, thì tương lai bạn vẫn phải trả lại tôi thôi. Không phải của tôi, tức là trong số mạng của tôi không có số tiền tài này, dù hôm nay bạn không lấy, ngày mai vẫn có người khác đến lấy, nên tôi chẳng cần phải lo lắng nữa. Không quan tâm, không lo lắng thì tâm được tự tại, được thảnh thơi rồi. Từ nay, chúng ta sẽ không bị những thứ này làm cho lo buồn nữa.</span><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><span style="font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px;">Khi hiểu được chân lý này, trong giao tiếp hằng ngày với mọi người, tâm chúng ta sẽ tự nhiên chánh trực, tự nhiên ngay thẳng, sẽ không khởi tâm tham để chiếm lợi của kẻ khác. Hiểu được điều gì vậy? Hiểu được hôm nay ta chiếm đoạt của người, tương lai đời sau phải trả nợ, cái việc này thật sự là phiền phức. Còn người ta thiếu mình thì sao? Thôi bỏ qua, chẳng cần tính nữa, ta không cần họ trả lại nữa. Trả cũng phiền phức, chuyến này là coi như xong xuôi nợ nần hết rồi, vậy liền tự tại.</span><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><span style="font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px;">Cho nên, chúng ta phải mau nghĩ cho rốt ráo sự việc này, nghĩ thông rồi, nhìn thấu rồi, thì tự nhiên buông xả được thôi. Tại sao người ta buông không được? Tại vì chưa nhìn thấu được vấn đề đó thôi.</span><div class="text_exposed_root text_exposed" id="id_55f35da9b9e5c3a72782632" style="font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px;"><em style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"> Pháp sư Tịnh Không</strong></em></div><div class="text_exposed_root text_exposed" id="id_55f35da9b9e5c3a72782632" style="font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px;"><em style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><br /></strong></em></div></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><br /></div><br />voluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8726509563833692641.post-10726161738841728742022-05-09T17:10:00.002+07:002022-06-10T08:58:51.609+07:00 Nếu mà Tu không khó thì mình chỉ mang Hạ sĩ thôi - - Bài giảng HT. Thái Hòa<p><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; font-size: 15px; white-space: pre-wrap;"></span></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi3NnFBcEithd0px4Qi_Qz1Kj3rtByemU5xaYo4V_2M6_7q80PDtCZcWF8XhQX4WDyM4WTd6YzQ2JT8ee-CO6WkUSCOw0qKJ1xrJvHMHgyB5b_HhDNf_FeZZBWukcO05zVQ3MAl9jM98FrcVXhPxJDekKUu3I64O5xA8Xs5mHHvdzoqF57mDGnGMAO9og/s360/HT-Thai-Hoa.jpg" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="204" data-original-width="360" height="181" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi3NnFBcEithd0px4Qi_Qz1Kj3rtByemU5xaYo4V_2M6_7q80PDtCZcWF8XhQX4WDyM4WTd6YzQ2JT8ee-CO6WkUSCOw0qKJ1xrJvHMHgyB5b_HhDNf_FeZZBWukcO05zVQ3MAl9jM98FrcVXhPxJDekKUu3I64O5xA8Xs5mHHvdzoqF57mDGnGMAO9og/s320/HT-Thai-Hoa.jpg" width="320" /></a></div><div style="text-align: justify;"><b>Nhưng vì Tu khó quá nên được coi là Xuất trần thượng sĩ , Tu càng khó thì càng hấp dẫn cho nên mình đi Tu là tìm việc khó mà làm . Chuyện thế gian làm không được thì mình càng phải làm , còn việc thế gian làm được thì mình không có nên tranh giành ....</b></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Bài giảng của HT: Thích Thái Hòa</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Nguồn: facebook.com/ngoigialam</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: center;"><span style="background: white; color: #050505; font-family: inherit;"><iframe allow="autoplay; clipboard-write; encrypted-media; picture-in-picture; web-share" allowfullscreen="true" frameborder="0" height="314" scrolling="no" src="https://www.facebook.com/plugins/video.php?height=314&href=https%3A%2F%2Fwww.facebook.com%2Fngoigialam%2Fvideos%2F345611450887959%2F&show_text=false&width=560&t=0" style="border: none; overflow: hidden;" width="560"></iframe></span></div><p></p><p style="text-align: center;"><span style="background: white; color: #050505; font-family: inherit;"><br /></span></p>voluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8726509563833692641.post-89333957104261924022022-04-22T10:59:00.000+07:002022-06-08T08:56:36.630+07:00Pháp ngữ HT-Tịnh Không: Duyên Nợ vợ chồng<p style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;"><b></b></span></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><b><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgvC3M7rnhpjckkt7Pmg5CxvtyhepyvQOir7f3Rb-iE0KYTDT9F5z0ZVgyUi5RUgWKYse5e9_oeT6YaZk0t972SxhxRkHJ_JY06NTT34aTBc1N5yuPH9Hsg0aEamWWfDh6q0n90uxoYUUVwveah-rHGeKLPOr-NLIaY8dJFLBWnwIuBOiCqFgoS6Ap1Uw/s1043/hoa-thuong-tinh-khong-1.jpg" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="650" data-original-width="1043" height="199" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgvC3M7rnhpjckkt7Pmg5CxvtyhepyvQOir7f3Rb-iE0KYTDT9F5z0ZVgyUi5RUgWKYse5e9_oeT6YaZk0t972SxhxRkHJ_JY06NTT34aTBc1N5yuPH9Hsg0aEamWWfDh6q0n90uxoYUUVwveah-rHGeKLPOr-NLIaY8dJFLBWnwIuBOiCqFgoS6Ap1Uw/s320/hoa-thuong-tinh-khong-1.jpg" width="320" /></a></b></div><b><div style="text-align: justify;"><b>VLCĐ: Trong Kinh
điển, Đức Phật đã dạy cho chúng ta biết các quan hệ trong gia đình như chồng
vợ, cha mẹ, con cái, anh em trong đời này, đều là quan hệ Duyên-Nợ với nhau.
Nếu không có cái quan hệ Duyên-Nợ này thì sao? Thì sẽ không gặp nhau.</b></div></b><p></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;"><o:p> </o:p></span><span style="font-size: 13pt;">Do đó, chúng ta phải biết sự
sống chung giữa người với người, giữa mình với người, đều phải nói đến duyên
phận. Trong duyên phận này, có thiện duyên và ác duyên</span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;">Thế nào là thiện duyên? Mối
duyên phận này đem đến an vui, hạnh phúc cho những người trong cuộc.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;">Thế nào là ác duyên? Tức là
mối duyên phận này chỉ toàn đem lại khổ đau và buồn phiền cho những người trong
cuộc.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;">Nói đến Nợ tức là có trả nợ,
có đòi nợ. Trong xã hội ngày nay, chúng ta thấy được hiện tượng đòi nợ và trả
nợ trong quan hệ vợ chồng rất rõ ràng. Ban đầu khi đến với nhau chẳng phải đều
rất tốt đẹp đó sao, nhưng chỉ trong thời gian ngắn thì liền trở mặt, liền chia
tay. Nguyên nhân do đâu? Đã hết nợ, khi một trong hai người đã đòi nợ xong
xuôi, và người kia cũng trả xong, thì liền chia tay, liền ra đi.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;">Vậy thế nào là đến với nhau
để đòi nợ? Người này trong gia đình thường rất gia trưởng, không thích làm,
nhưng rất biết hưởng thụ, không thích người chồng hay vợ làm phật ý mình, nhưng
bản thân thì không mấy quan tâm đến cảm nhận của người chồng hay vợ của mình.
Nếu là nợ ít, thì người này chỉ trong thời gian ngắn thì đòi xong nợ, nợ đòi
xong thì liền chia tay, liền ra đi. Nếu nợ nhiều, thì có khi đến hết cuộc đời
mới chịu ra đi.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;">Vậy thế nào là đến với nhau
để trả nợ? Người này rất mực yêu thương và lo lắng, làm tất cả mọi việc chỉ để
cung phụng và phục vụ cho người chồng hay vợ của mình. Mặc dù là người làm ra
tiền, nhưng người này chẳng dám xài dù chỉ một đồng cho mình, tất cả đều dành
cho người chồng hay vợ của mình.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;">Duyên-Nợ của vợ chồng là từ
đâu đến? Đó là từ những nhân duyên vay trả từ đời quá khứ mà đến. Đời trước ta
nợ của người, nhưng lại có duyên tình ái với người, nên đời này người đến làm
chồng, làm vợ của ta để viết tiếp đoạn tình ái còn dang dở của đời quá khứ, và
cũng để đòi cho xong số nợ mà ta đã nợ của người. Thế mới biết, giữa người với
người không có chuyện thiếu nợ mà không trả, đời này không trả thì đời sau vẫn
phải trả, đời sau không trả thì đời sau nữa vẫn phải trả. <o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;">Trong truyện Hồng Lâu Mộng
nói được rất hay:<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;">_ " Nợ người nước mắt
thì phải trả lại bằng nước mắt".<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;">Từ đây mà biết được, chính
chúng ta tu phước, chính chúng ta thọ dụng, chẳng ai có thể can thiệt vài tiến
trình Nhân-Quả của chúng ta được cả.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;">Giờ đây đã hiểu được chân
tướng sự thật Duyên-Nợ giữa vợ chồng rồi, thì trong cuộc sống gia đình hằng
ngày, chỗ nợ mình thiếu đó cứ hoan hoan hỷ hỷ mà trả, đừng nên đi so đo, chấp
được, chấp mất nữa. Vì sao? Vì biết được nếu bây giờ mình không trả, thì sau
này vẫn phải trả, đời này không trả thì đời sau vẫn tiếp tục trả, vậy thì hà
tất gì phải kéo dài thời gian làm khổ cho chính mình chứ. Cứ vui vẻ mà trả, nợ
trả xong rồi thì phước, thì an vui liền đến.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;">Vậy còn người thiếu ta thì
sao? Số nợ này ta không cần nữa, bỏ qua hết cho người. Vậy thì liền được tự
tại, được an vui. Có người nói rằng:<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;">_ " Nợ là do người thiếu
của ta, nay ta bỏ qua hết cho người, vậy thì ta có thiệt thòi quá không?"<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;">Xin thưa rằng, chẳng những
không có thiệt thòi, mà còn được phước. Nếu ta không bỏ qua, quyết định đời này
cùng với người nợ nần phải đòi cho bằng được. thì đến kiếp kế tiếp ta lại là
người phải đi trả nợ. <o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;">Ta và người nợ nần đền trả
hết kiếp này đến kiếp khác không cùng không tận. Đồng nghĩa với việc ta mãi đi
trong luân hồi sanh tử chỉ để hết vay rồi trả, hết trả rồi vay cùng với người.
Vậy thì cái đòi được trước mắt không đủ để bù vào cái ta sẽ mất trong tương
lai, đây là thiệt thòi quá lớn, quá lớn.<o:p></o:p></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;"><o:p> </o:p></span><span style="font-size: 13pt;"><b><i>Pháp ngữ H.T Tịnh Không</i></b></span></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13pt;"><o:p> </o:p></span></p>voluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8726509563833692641.post-24911597236663690022022-04-20T10:28:00.000+07:002022-06-03T06:12:30.501+07:00Kính Mừng Đản Sinh Đức Từ phụ THÍCH CA MÂU NI - PL 2566 - 2022<p> Kính Mừng Đản Sinh Đức Từ phụ THÍCH CA MÂU NI - PL 2566 - 2022. </p><div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><iframe allow="accelerometer; autoplay; clipboard-write; encrypted-media; gyroscope; picture-in-picture" allowfullscreen="" frameborder="0" height="315" src="https://www.youtube.com/embed/p2w_EfEt-RI" title="YouTube video player" width="560"></iframe></div>
</div>voluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8726509563833692641.post-48193633238857081132022-04-15T08:19:00.008+07:002022-06-05T09:39:33.021+07:00Bài nhạc tán thán cõi Phật A Di Đà<p style="text-align: justify;"></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: justify;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEij-Tm7jtfznjAQzGrcz3tzrcLgCgElChE7_z8U6VhzcPYx3FrUe1FE7D_qPFcNtlCn6WnYXIDtvY6FLKmn36vSH9DlMYgVj9_Wno0O5K6YyXk7SbF5yAwpMIg9cACzzhVeJcfNLplsf_49v6-E4Dd_LnCGrLYQrXAdVdmrJc8J-F6zjvfyMji8SG4Urg/s800/Phat%20Tam%20The%20ngang%202022.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em; text-align: center;"><img border="0" data-original-height="499" data-original-width="800" height="200" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEij-Tm7jtfznjAQzGrcz3tzrcLgCgElChE7_z8U6VhzcPYx3FrUe1FE7D_qPFcNtlCn6WnYXIDtvY6FLKmn36vSH9DlMYgVj9_Wno0O5K6YyXk7SbF5yAwpMIg9cACzzhVeJcfNLplsf_49v6-E4Dd_LnCGrLYQrXAdVdmrJc8J-F6zjvfyMji8SG4Urg/s320/Phat%20Tam%20The%20ngang%202022.jpg" width="320" /></a><b style="text-align: left;">VLCĐ: Nói về phần Y báo về cảnh giới Tây phương của Đức Phật A Di Đà trong Kinh văn có đoạn:</b></div><p></p><p style="text-align: justify;">Xá Lợi Phất ! Cõi đó vì sao tên là cõi Cực Lạc? Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc.</p><p style="text-align: justify;">Xá Lợi Phất! lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc. Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao bằng bảy châu báu, trong ao đầy dẫn nước đủ tám công đức, đáy thuần dùng cát vàng trải làm đất.</p><p style="text-align: justify;">Vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở bốn bên ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não. Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sáng trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch.</p><p style="text-align: justify;"></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><br /></div><br />Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy. Xá Lợi Phất! Lại rong cõi nước của Đức Phật đó, thường trỗi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáo trời rưới hoa trời mạn đà la.<p></p><p style="text-align: justify;">Chúng sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đãi hoa đựng những hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức Đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc ăn cơm xong đi kinh hành.</p><p style="text-align: justify;">Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy. Lài nữa, Xá Lợi Phất! Cõi đó thường có những giống chim mầu sắc xinh đẹp là thường, nào chim Bạch hạc, Khổng tước, Anh- võ, Xá- lợi, Ca- lăng- tần- già, Cọng- mạng; nhữn giớng chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiếng hoà nhã.</p><p style="text-align: justify;">tiếng chim đó diễn nói những pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần..v..v.. Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!</p><p style="text-align: justify;">Nghe bản nhạc Tán thán Quốc độ Đức Phật A Đi Đà do Hùng Thanh trình bày:</p><p style="text-align: center;"><iframe allow="accelerometer; autoplay; clipboard-write; encrypted-media; gyroscope; picture-in-picture" allowfullscreen="" frameborder="0" height="315" src="https://www.youtube.com/embed/1M1Ub-wnYH0" title="YouTube video player" width="560"></iframe></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><br /></div><br />voluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8726509563833692641.post-6225683372798653872022-04-05T17:04:00.002+07:002022-06-10T08:57:13.015+07:00 Không ai có thể ép mình đi Xuất Gia được - Bài giảng HT. Thái Hòa<p><span style="background-color: white; color: #050505; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: trebuchet; font-size: medium;"></span></span></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><span style="background-color: white; color: #050505; white-space: pre-wrap;"><span style="font-family: trebuchet; font-size: medium;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhX9lRkMkhbALkwAxv4rXW7q4-HYbyFQssTQbfKKiJjxI1eAWUOQqGh1Cg0V_NoDwgB8lLVlrql7TTZ3HfNSqomz3S_-5IjQyeRF398uGq89MFUrrqBM16s_TPRKQHdrM2olQoE30cUTjJ3YXFtcYVZOdIHo3q9LYQZlH6grvfgadRqOt388DQ6OWVLvg/s360/HT-Thai-Hoa.jpg" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="204" data-original-width="360" height="181" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhX9lRkMkhbALkwAxv4rXW7q4-HYbyFQssTQbfKKiJjxI1eAWUOQqGh1Cg0V_NoDwgB8lLVlrql7TTZ3HfNSqomz3S_-5IjQyeRF398uGq89MFUrrqBM16s_TPRKQHdrM2olQoE30cUTjJ3YXFtcYVZOdIHo3q9LYQZlH6grvfgadRqOt388DQ6OWVLvg/s320/HT-Thai-Hoa.jpg" width="320" /></a></span></span></div><span style="background-color: white; color: #050505; white-space: pre-wrap;"><div style="text-align: justify;"><span style="color: #050505;"><span style="font-family: trebuchet; font-size: medium;">Dù có là Cha hay Mẹ đi nữa cũng không thể bắt mình đi Xuất Gia được nếu mình không muốn . Còn nếu mình đã muốn rồi thì không ai cản nổi được hết . </span></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: trebuchet; font-size: large;">Nếu các Thầy các Cô đã muốn Xuất Gia rồi thì cái Nghiệp sanh tử nó tự tháo tung ra khiến cho mình tự bước tới cái chí nguyện Xuất Gia của mình...</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="text-align: left;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="text-align: left;">Bài giảng của HT: Thích Thái Hòa
</span><span style="font-size: 12pt; text-align: left;">Nguồn: facebook.com/ngoigialam</span></div></span><div class="cxmmr5t8 oygrvhab hcukyx3x c1et5uql o9v6fnle ii04i59q" style="animation-name: none; background-color: white; color: #050505; margin: 0.5em 0px 0px; overflow-wrap: break-word; transition-property: none; white-space: pre-wrap;"><div dir="auto" style="animation-name: none; transition-property: none;"><span style="font-family: trebuchet; font-size: medium;"><br /></span></div><div dir="auto" style="animation-name: none; text-align: center; transition-property: none;"><span style="font-family: trebuchet; font-size: medium;"><iframe allow="autoplay; clipboard-write; encrypted-media; picture-in-picture; web-share" allowfullscreen="true" frameborder="0" height="314" scrolling="no" src="https://www.facebook.com/plugins/video.php?height=314&href=https%3A%2F%2Fwww.facebook.com%2Fngoigialam%2Fvideos%2F738173757625513%2F&show_text=false&width=560&t=0" style="border: none; overflow: hidden;" width="560"></iframe></span></div></div>voluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8726509563833692641.post-77274476006793281512022-02-15T08:41:00.013+07:002022-06-06T10:11:24.850+07:00Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải Giảng Ký Phần 9<div style="text-align: justify;"><span style="font-family: trebuchet; font-size: 15pt;"><b>VLCĐ:</b> Trong bản Kinh Phật thuyết A Di Đà Kinh có những đoạn Đức phật thuyết về các cõi như <b style="text-align: justify; text-indent: 28.8px;"><i>Đông phương diệc hữu A Súc Bệ Phật... </i></b><b style="text-align: justify; text-indent: 28.8px;"><i>Nam phương thế giới hữu Nhật Nguyệt Đăng Phật... </i></b><b style="text-align: justify; text-indent: 28.8px;"><i>Tây Phương thế giới hữu Vô Lượng Thọ Phật... </i></b><b style="text-align: justify; text-indent: 28.8px;"><i>Bắc phương thế giới hữu Diệm Kiên Phật... </i></b><b style="text-align: justify; text-indent: 28.8px;"><i>Hạ phương thế giới hữu Sư Tử Phật... </i></b><b style="text-align: justify; text-indent: 28.8px;"><i>Thượng phương thế giới hữu Phạm Âm Phật... </i></b><span style="text-align: justify;">Mười phương thế giới vô lượng vô biên chư Phật Như Lai, không một vị Phật nào chẳng khen ngợi Tây Phương Cực Lạc thế giới, khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn. Để tường tận ý nghĩa thù thắng trong Kinh, chúng tôi xin đăng phần </span><b><i>Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải Giảng Ký Phần 9.</i></b></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: trebuchet; font-size: medium;"><b><i>-----------------------------</i></b></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: trebuchet; font-size: medium;"><b><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjqVf_D9CNjOV4WkHB2pU4kZuQAzKpnagzRgHpQy6AcvsX4Y5A0Rvdd4-hu0mFf22-PmCj4ozeV8kUT6YzL6SeyyZHVoNC9xHrIQCOZoN32TLFCA4XlvboJJ3ljhD2KBnflnGA8WhHxiReq-FvF4JDVNiJ8SKTF_rPJcz7sS_5KSP3codP-4iPYDIs4uw/s800/Di-da-tam-ton-4.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="625" data-original-width="800" height="501" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjqVf_D9CNjOV4WkHB2pU4kZuQAzKpnagzRgHpQy6AcvsX4Y5A0Rvdd4-hu0mFf22-PmCj4ozeV8kUT6YzL6SeyyZHVoNC9xHrIQCOZoN32TLFCA4XlvboJJ3ljhD2KBnflnGA8WhHxiReq-FvF4JDVNiJ8SKTF_rPJcz7sS_5KSP3codP-4iPYDIs4uw/w640-h501/Di-da-tam-ton-4.jpg" width="640" /></a></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><b><span style="font-size: large;">Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải</span></b></div></b></span></div><div style="text-align: justify;"><div class="Section1" style="page: Section1; text-align: start;"><p align="center" class="MsoNormal" style="margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><b><span style="font-size: large;">Giảng Ký<o:p></o:p></span></b></p><p align="center" class="MsoNormal" style="margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><b><span style="font-size: large;">Phần 9</span><span style="color: blue; font-size: 22pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p align="center" class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-TW" style="font-size: 22pt;">佛說阿彌陀經要解講記</span></b><b><span style="font-size: 22pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p align="center" class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><span style="font-size: 14pt;">Diêu Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch kinh<o:p></o:p></span></p><p align="center" class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 14pt;">姚秦三藏法師鳩摩羅什譯</span><span style="font-size: 14pt;"><o:p></o:p></span></p><p align="center" class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><span style="font-size: 14pt;">Sa-môn Tây Hữu Ngẫu Ích Trí Húc chú giải vào đời Thanh<o:p></o:p></span></p><p align="center" class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 14pt;">清西有沙門蕅益智旭解</span><span style="font-size: 14pt;"><o:p></o:p></span></p><p align="center" class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><span style="font-size: 14pt;">Pháp sư Tịnh Không giảng thuật<o:p></o:p></span></p><p align="center" class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 14pt;">淨空法師講述</span><span style="font-size: 14pt;"><o:p></o:p></span></p><p align="center" class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><span style="font-size: 14pt;">Cư sĩ Lưu Thừa Phù ghi chép<o:p></o:p></span></p><p align="center" class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 14pt;">劉承符居士記</span><span style="font-size: 14pt;"><o:p></o:p></span></p><p align="center" class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><span style="font-size: 14pt;">Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa<o:p></o:p></span></p><p align="center" class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><span style="font-size: 14pt;">(theo bản in của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội năm 2006)<o:p></o:p></span></p><p align="center" class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><span style="font-size: 14pt;">Giảo duyệt: Minh Tiến, Huệ Trang, Vạn Từ và Đức Phong<o:p></o:p></span></p><p align="center" class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">(Kinh) Đông phương diệc hữu A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn: “Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”.<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">(Giải) A Súc Bệ, thử vân Vô Động. Phật hữu vô lượng đức, ưng hữu vô lượng danh. Tùy cơ nhi lập, hoặc thủ nhân, hoặc thủ quả, hoặc Tánh, hoặc Tướng, hoặc hạnh nguyện đẳng. Tuy cử nhất ngung, nhưng cụ Tứ Tất. Tùy nhất nhất danh, hiển sở thuyên đức. Kiếp thọ thuyết chi, bất năng tất dã.<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">經</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">東方亦有阿閦鞞佛。須彌相佛。大須彌佛。須彌光佛。妙音佛。如是等。恆河沙數諸佛。各於其國。出廣長舌相。遍覆三千大千世界。說誠實言。汝等眾生。當信是。稱讚不可思議功德。一切諸佛所護念經。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"> <o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">解</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">阿閦鞞。此云無動。佛有無量德。應有無量名。隨機而立。或取因。或取果。或性或相。或行願等。雖舉一隅。仍具四悉。隨一一名。顯所詮德。劫壽說之。不能悉也。</span></b><span style="font-size: 14pt;"><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">(<b>Chánh kinh</b>: Phương Đông cũng có A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật, các đức Phật nhiều như cát sông Hằng như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật: “Chúng sanh các ngươi hãy nên tin kinh Khen Ngợi Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này”.<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">Giải: A Súc Bệ, cõi này dịch là Vô Động, Phật có vô lượng đức, đương nhiên có vô lượng danh hiệu. Tùy theo căn cơ [của chúng sanh hóa độ] mà lập một danh hiệu, hoặc dùng nhân, hoặc dùng quả, hoặc Tánh, hoặc Tướng, hoặc hạnh nguyện v.v... [để đặt tên]. Tuy nêu lên một khía cạnh, nhưng mỗi danh hiệu đều đầy đủ bốn món Tất Đàn. Đối với mỗi danh hiệu, muốn giảng rõ tánh đức được phô diễn bởi danh hiệu ấy thì dù có sống lâu cả kiếp để diễn nói cũng chẳng thể nào nói trọn hết được).<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><i><span style="font-size: 14pt;"> </span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Phật và Bồ Tát đều không có danh hiệu. Danh hiệu là giả danh, thuận theo phía chúng sanh mà lập ra, [tức là] dựa theo nhu cầu của chúng sanh trong hiện thời, thuận theo căn cơ mà lập ra. Hoặc dựa theo nhân, dựa theo quả, hoặc dựa theo Tánh, dựa theo tướng để chọn lấy một đức năng trong vô lượng đức năng [mà lập danh hiệu] nhằm biểu thị pháp hòng tạo lợi ích thực dụng cho chúng sanh. Ấn Độ và Trung Quốc đều coi phương Đông là đứng đầu [trong các phương], mặt trời mọc từ phương Đông. Trong Tứ Quý (bốn mùa), phương Đông biểu thị mùa Xuân. Trong Ngũ Hành, phương Đông thuộc Mộc, phương Nam thuộc Hỏa, phương Tây thuộc Kim, phương Bắc thuộc Thủy, chính giữa thuộc Thổ, rất gần với cách nhìn của người Ấn Độ. Danh hiệu của năm vị Phật này, A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật, tượng trưng cho căn bản tu học trong pháp môn.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị thứ nhất là A Súc Bệ Phật, A Súc Bệ (Akshobhya) nghĩa là Bất Động, biểu thị học Phật, đối với bất cứ pháp môn nào, Đại Thừa hay Tiểu Thừa, Tông Môn hay Giáo Hạ, Hiển Giáo hay Mật Giáo đều phải bất động. Đấy là điều kiện cơ bản nhất. Nếu thứ gì cũng học, ắt sẽ chẳng thành một việc nào! Cần phải “<i>tám gió thổi chẳng động</i>” thì mới có tư cách nhập môn nhà Phật. Đối với tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần tâm chẳng động, lại còn phải tiến hơn một bước nữa là chẳng bị lay động bởi các pháp môn khác. Pháp môn, tông phái rất nhiều, ắt phải thâm nhập một môn. Thiện Đạo đại sư nói<i>: “Nếu muốn cầu Giải thì học nhiều tới mấy pháp môn cũng chẳng trở ngại gì; nhưng nếu muốn tu hành, nhất định phải giữ lấy một môn”.</i> Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần, năm mươi ba vị thiện tri thức đều là biểu thị pháp, tượng trưng cho nam nữ già trẻ đủ các ngành nghề trong xã hội, phương diện tiếp xúc hết sức rộng, Thiện Tài đều hiểu rõ hết, nhưng đối với sự tu hành của chính mình thì là “<i>một môn thâm nhập</i>”. Do chẳng hề dao động, Thiện Tài tu pháp môn Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Vị thầy thứ nhất của Thiện Tài là tỳ-kheo Đức Vân (Meghaśri Bhiksu, còn dịch là tỳ-kheo Cát Tường Vân), là một vị xuất gia. Trong năm mươi ba vị thiện tri thức, chỉ có năm vị là người xuất gia. Tỳ-kheo Đức Vân dạy Thiện Tài niệm Phật, môn nào học trước tiên sẽ là chánh yếu; về sau, Thiện Tài gặp những vị thiện tri thức khác, phương pháp tu trì của mỗi vị mỗi khác. Thiện Tài nghe xong đều biểu lộ cung kính cảm tạ, rồi liền cáo từ, biểu thị “chẳng muốn học pháp môn ấy”. Mãi cho đến vị thiện tri thức thứ năm mươi ba là Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười đại nguyện vương đưa về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Thiện Tài là chúng sanh căn cơ đã chín muồi, thành Phật trong một đời. Các tông, các phái đều hiểu rõ, hoàn toàn chẳng chướng ngại pháp môn của chính mình tu học. Thiện Tài nêu gương đáng cho chúng ta noi theo. Nếu không có tinh thần độc lập ấy, đừng nên lãng phí thời gian, có học cũng vô ích! Từ xưa, các vị tổ sư đại đức nếu nhận thấy người nào có thể đào tạo thành nhân tài bèn dùng đủ mọi phương pháp để rèn giũa kẻ ấy, tới khi kẻ ấy chịu không nổi sẽ bỏ đi, tức là chẳng thể thành tựu. Rèn giũa trăm cách mà người ấy vẫn chẳng động tâm thì mới là pháp khí. Cương lãnh tu học của Bồ Tát, thứ nhất là bố thí, thứ hai là nhẫn nhục. Bảo quý vị buông xuống, thế gian lẫn xuất thế gian đều buông xuống hết, chuyên tu pháp môn này. Do vậy, A Súc Bệ là vị Phật thứ nhất tại phương Đông, dịch nghĩa là Vô Động, bao hàm những nghĩa đã nói trên đây.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Ba vị Phật kia là Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, đều dùng chữ Tu Di (Sumeru, Meru) làm danh hiệu để sánh ví. Cao nhất trong thế giới này là núi Tu Di, nhưng nó chẳng nằm trên địa cầu. Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nói một hệ Ngân Hà là một đơn vị thế giới; trung tâm của hệ Ngân Hà được giới thiên văn gọi là “<i>hắc đỗng</i>” (black hole). Hắc đỗng chính là núi Tu Di. Tất cả tinh cầu đều xoay chuyển quanh nó, nó là trung tâm của thế giới. Trong Phật pháp, gọi nó là núi Diệu Cao. Kinh thường dùng Pháp Thân để tỷ dụ bản thể. Ba vị Phật được nêu trên đây nhằm biểu thị Tam Thân, tức Pháp Thân, Báo Thân, và Ứng Hóa Thân. Ba thân nhưng cùng một Thể.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị thứ nhất là Tu Di Tướng Phật (Merudhvaja Buddha), Tướng là tướng hảo, quang minh. Chúng sanh trong chín pháp giới đều ngưỡng mộ tướng hảo của Phật, [như vậy Tu Di Tướng] biểu thị Báo Thân. Vị thứ hai là Đại Tu Di Phật (Mahameru), Đại là từ ngữ khen ngợi, khen ngợi Lý thể của Pháp Thân trong tâm tánh chẳng thể nghĩ bàn, những nhà triết học gọi nó là “<i>bản thể của vạn hữu trong vũ trụ</i>”, còn Phật pháp gọi là Pháp Thân. Hết thảy vạn pháp đều do nó biến hiện ra.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị thứ ba là Tu Di Quang Phật (Meruprabhasa Buddha); Quang là quang minh chiếu trọn khắp, lợi ích trọn khắp hết thảy chúng sanh. Đây chính là nói về Ứng Thân. Nên dùng thân nào để đắc độ bèn hiện thân ấy để độ, tùy loại hóa thân, tức là ý nghĩa “<i>quang minh biến chiếu</i>” (quang minh chiếu trọn khắp). Mục tiêu học Phật chính là phải thành tựu Tam Thân.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Cuối cùng là Diệu Âm Phật (Manjughosha Buddha), đem phương pháp tu học nói ra. Tịnh Độ Tông niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, tín nguyện trì danh là pháp môn trực tiếp để thành Phật. “<i>Diệu Âm</i>” chính là “<i>nam-mô A Di Đà Phật</i>”, chúng sanh trong chín pháp giới khắp mười phương ba đời đều dùng phương pháp này để vãng sanh Tịnh Độ, bất thoái thành Phật.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">(<b>Giải) Đông phương hư không bất khả tận, thế giới diệc bất khả tận. Thế giới bất khả tận, trụ thế chư Phật diệc bất khả tận. Lược cử “hằng hà sa” nhĩ. Thử đẳng chư Phật, các xuất quảng trường thiệt, khuyến tín thử kinh, nhi chúng sanh do bất sanh tín, ngoan minh cực hỹ. Thường nhân tam thế bất vọng ngữ, thiệt năng chí tỵ. Tạng Quả Đầu Phật, tam đại tăng-kỳ kiếp bất vọng ngữ, thiệt bạc, quảng trường khả phú diện. Kim chứng Đại Thừa Tịnh Độ diệu môn, sở dĩ biến phú tam thiên, biểu Lý thành xứng Chân, Sự thật phi mậu dã. Tiêu xuất kinh đề, lưu thông chi bổn. Thập sư thuận thử phương hiếu lược, dịch kim đề, xảo hợp trì danh diệu hạnh. Trang sư dịch vân Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh. Văn hữu tường lược, nghĩa vô tăng giảm. <o:p></o:p></b></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">解</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">東方虛空不可盡。世界亦不可盡。世界不可盡。住世諸佛亦不可盡。略舉恆河沙耳。此等諸佛。各出廣長舌。勸信此經。而眾生猶不生信。頑冥極矣。常人三世不妄語。舌能至鼻。藏果頭佛。三大僧祇劫不妄語。舌薄廣長可覆面。今證大乘淨土妙門。所以遍覆三千。表理誠稱真。事實非謬也。標出經題。流通之本。什師順此方好略。譯今題。巧合持名妙行。奘師譯云。稱讚淨土。佛攝受經。文有詳略。義無增減。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">(<b>Giải</b>: Phương Đông hư không chẳng thể cùng tận, nên thế giới cũng chẳng thể cùng tận. Do thế giới chẳng thể cùng tận nên chư Phật trụ thế cũng chẳng thể cùng tận, chỉ nêu đại lược là “nhiều như số cát sông Hằng” mà thôi. Các vị Phật vị nào cũng hiện tướng lưỡi rộng dài, khuyên nên tin kinh này, mà chúng sanh vẫn chẳng sanh lòng tin, ương bướng, tối tăm đến tột bậc vậy! Người thường mà ba đời không nói dối thì lưỡi có thể chạm được mũi. Quả vị Phật trong Tạng Giáo ba đại A-tăng-kỳ kiếp không nói dối, lưỡi mỏng, rộng dài có thể che mặt. Nay nhằm chứng thực pháp môn Tịnh Độ mầu nhiệm, cho nên [chư Phật thè lưỡi] che khắp tam thiên, nhằm biểu thị “Lý quả thật xứng hợp chân thật, Sự là đúng với sự thật, chẳng sai lầm”. Nêu ra tựa đề kinh nhằm làm cái gốc cho việc lưu thông. Ngài La Thập thuận theo thói thích đơn giản của phương này, mà dịch tựa đề kinh như [đề kinh đang được sử dụng] trong hiện tại, phù hợp khéo léo với diệu hạnh trì danh. Ngài Huyền Trang dịch [tựa đề kinh này] là Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh. Lời văn tuy có cặn kẽ hay đại lược khác nhau, nhưng ý nghĩa chẳng bị tăng hay giảm).<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Phương Đông hư không chẳng thể cùng tận, thế giới và chư Phật trụ thế đều chẳng thể cùng tận nên dùng cát sông Hằng để so sánh. Cát sông Hằng có cùng tận, nhưng thế giới vô tận. Mười phương hết thảy chư Phật đều khuyên con người hãy nên tin tưởng kinh này mà chúng sanh vẫn chẳng tin tưởng, đúng là ương bướng, u tối đến tột cùng. Đọc kinh Vô Lượng Thọ rồi mới hoảng nhiên đại ngộ, [có tình trạng ngoan cố, tối tăm ấy] vốn là do thiện căn và phước đức chẳng đủ. Trong kinh ấy, vương tử A Xà Thế và năm trăm vị trưởng giả nghe Phật giảng kinh Vô Lượng Thọ, nghe xong hết sức hoan hỷ, dùng hoa bằng vàng để cúng Phật nhằm biểu thị ý cảm tạ, trong tâm khởi lên ý niệm mong mỏi trong tương lai khi thành Phật cũng sẽ giống hệt như A Di Đà Phật. Họ vừa dấy khởi ý niệm ấy, đức Phật đã biết rõ. Phật nói bọn họ trong đời quá khứ đã từng cúng dường bốn trăm ức Phật, nhưng thiện căn và phước đức vẫn chưa đủ, bọn họ chỉ khởi lên ý niệm ấy, sanh lòng hoan hỷ, nhưng hoàn toàn chẳng phát tâm cầu nguyện vãng sanh. Nếu có ai thật sự phát nguyện cầu sanh về Tịnh Độ, đấy chính là trong đời quá khứ đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, chứ không phải chỉ có bốn trăm ức Phật.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">“<i>Tướng lưỡi rộng dài</i>” là một trong ba mươi hai tướng. Nếu có thể le lưỡi liếm tới đầu mũi thì đấy là điều cho thấy người ấy trong ba đời không nói dối. Kinh nói đức Thế Tôn đời đời kiếp kiếp chẳng nói dối, nên đầu lưỡi khi le ra có thể che cả mặt. Vị Phật trong Tạng Giáo do không nói dối trong ba đại A-tăng-kỳ kiếp nên lưỡi mỏng, dài rộng, có thể che được mặt. Phật Thích Ca như vậy đó. Hết thảy chư Phật Như Lai chứng minh cho chúng ta biết Tịnh Độ là pháp môn Đại Thừa mầu nhiệm nhất. Mầu nhiệm ở chỗ có thể khế hợp hết thảy chúng sanh khiến cho họ có thể trong một đời viên mãn thành Phật, viên mãn rốt ráo Phật quả.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Kinh này có tựa đề là Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh. Kinh này do La Thập đại sư dịch, Ngài biết người Hoa ưa nói đơn giản, bất luận ngôn ngữ, văn tự nào cũng đều mong sao nói được những điểm trọng yếu nhưng tường tận, rõ ràng. Do vậy, Ngài đặt tựa đề kinh là Phật Thuyết A Di Đà Kinh, lấy ngay danh hiệu làm tựa đề kinh. Huyền Trang đại sư cũng dịch kinh này, nhưng không được trôi chảy cho lắm, ai nấy đều thích bản dịch của ngài La Thập; [bởi lẽ, bản của ngài La Thập] văn từ lưu loát, thông đạt, ngay cả đệ tử của ngài Huyền Trang cũng chẳng phải là ngoại lệ. Tuy Huyền Trang đại sư đem Duy Thức Học truyền vào Trung Quốc, nhưng chưa tạo lập tông phái, phải đợi đến khi đồ đệ của Ngài là pháp sư Khuy Cơ mới sáng lập Pháp Tướng Tông. Vì thế, ngài Khuy Cơ là tổ sư đời thứ nhất của Pháp Tướng Tông. Ngài Khuy Cơ cũng viết một bản chú giải kinh Di Đà mang tựa đề [A Di Đà Kinh] Thông Tán Sớ, dùng bản dịch của ngài La Thập để viết chú giải, vì bản này được lưu hành trong cõi đời đã lâu, cho nên không dùng bản dịch của thầy mình. Đủ thấy thầy trò ngài Huyền Trang đều hết sức tôn trọng bản dịch của ngài La Thập.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">(Kinh) Xá Lợi Phất! Nam phương thế giới hữu Nhật Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới thuyết thành thật ngôn: “Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”.<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">經</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">舍利弗。南方世界。有日月燈佛。名聞光佛。大燄肩佛。須彌燈佛。無量精進佛。如是等恆河沙數諸佛。各於其國。出廣長舌相。遍覆三千大千世界。說誠實言。汝等眾生。當信是。稱讚不可思議功德。一切諸佛所護念經。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">(<b>Chánh kinh</b>: Trong các thế giới ở phương Nam có Nhật Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật, các đức Phật nhiều như số cát sông Hằng như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật: “Chúng sanh các ngươi hãy nên tin kinh Khen Ngợi Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này”).<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Trong đoạn trước đã giới thiệu phương Đông. Phương Đông nhằm tượng trưng cho căn bản tu học Phật pháp. Tại phương Đông [nêu đại lược] năm vị Phật, vị Phật thứ nhất tượng trưng cho thái độ cơ bản trong sự tu học Phật pháp. Bất luận tu học một pháp môn hay tông phái nào, mấu chốt thành bại chính là “<i>chuyên nhất, bất động</i>”. Có nhiều vị đồng tu chẳng thể nói là không dụng công, nhưng xét theo thực tại thì chẳng có thành tựu, chính là vì cái tâm chúng ta phập phều, chao động, hoàn toàn chẳng trấn định, đúng như cổ đức đã nói: “<i>Tâm bị cảnh chuyển</i>”. Như thế sẽ trọn chẳng thể tu đạo được! Do vậy, vị Phật thứ nhất là Bất Động Phật dạy chúng ta bất luận trong thuận cảnh hay nghịch cảnh, điều trước tiên phải học là tâm bất động. [Danh hiệu của] ba vị Phật tiếp đó nhằm nêu ra mục tiêu tu hành, chứng đắc viên mãn Pháp, Báo, Ứng ba thân. [Danh hiệu của] vị Phật thứ năm nhằm nêu ra phương pháp tu hành cơ bản trong tông này là Trì Danh Niệm Phật. Phương </span><st1:country-region><st1:place><span style="font-size: 14pt;">Nam</span></st1:place></st1:country-region><span style="font-size: 14pt;"> thuộc Hỏa, tượng trưng cho hiện tượng quang minh. Rất nhiều người hiểu lầm Tịnh Độ Tông, cho rằng Tịnh Độ Tông cầu nhất tâm bất loạn tức là có Định nhưng thiếu Huệ, quả thật chẳng biết một câu A Di Đà Phật chẳng những bao gồm Giới - Định - Huệ mà còn là trí huệ vô thượng.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ nhất ở phương Nam là Nhật Nguyệt Đăng Phật (Candrasuryapradipa Buddha), mang ý nghĩa “<i>quang minh chiếu trọn khắp</i>”, biểu thị tự tánh vốn trọn đủ trí huệ viên mãn, vũ trụ, nhân sinh, quá khứ, hiện tại, vị lai, không gì chẳng hiểu.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ hai là Danh Văn Quang Phật (Yaśahprabha Buddha), “<i>danh vă</i>n” nói theo cách bây giờ là “mức độ nổi tiếng”. Người tu hành thật sự dụng công, tu đến mức độ khá, quả thật sẽ nổi tiếng. Danh lẫn lợi đều có thể hại người. Nếu thiếu trí huệ, sẽ thường bị mê, hễ mê ắt đọa lạc. “<i>Quang</i>” là trí huệ, đối với họa hại của tiếng tăm, lợi dưỡng đều thấu hiểu rõ ràng, tự mình ắt phải xa lìa danh lợi thì mới chẳng bị hại.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ ba là Đại Diệm Kiên Phật (Maharciskandha Buddha), “<i>Diệm</i>” (</span><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 14pt;">燄</span><span style="font-size: 14pt;">) là ngọn lửa, trí huệ quang minh, biểu thị đột phá cửa ải danh lợi thì công phu sở học ắt sẽ tăng cao. Khi ấy sẽ có đủ hai thứ trí là Căn Bản Trí và Hậu Đắc Trí trên mức độ nông cạn. Hai thứ trí này được biểu thị bằng [hình tượng] hai vai trái và phải, hai trí hiện tiền giúp Phật giáo hóa. Căn Bản Trí là Thật Trí, là Thể của trí huệ. Hậu Đắc Trí là Quyền Trí, là Dụng của trí huệ. Kinh Bát Nhã đã nói: Căn Bản Trí là “<i>Bát Nhã vô tri</i>”, Hậu Đắc Trí là “<i>không gì chẳng biết</i>”. Chúng ta chỉ có vọng tưởng, phân biệt, về căn bản là chẳng có trí huệ, trí huệ là do Định mà có. Nếu cầu trí huệ thì trong bất luận tông phái nào, bậc thiện tri thức chân chánh sẽ dạy người ta trước hết phải cầu vô tri. Như Lục Tổ đại sư đã nói “<i>vốn không có một vật</i>”, có tri kiến nhất định là tà tri tà kiến. Chánh tri là trí huệ Bát Nhã trong tự tánh. Vì thế, nó được gọi là Tự Nhiên Trí hay Vô Sư Trí. Người học Phật hiện thời hoàn toàn làm trái cách dạy bảo của cổ đức. Trước hết, cầu học rộng nghe nhiều, thứ gì cũng muốn học, kết quả là hiểu biết hữu hạn. Trí huệ trong tự tánh chẳng do khảo cứu, đọc rộng rãi các sách mà có, mà phải do Định. Nhà Phật nói: “<i>Nhân Giới sanh Định, nhân Định khai Huệ</i>”. Pháp môn Niệm Phật là phải niệm đến mức nhất tâm bất loạn. Nếu đắc nhất tâm, sẽ đắc Căn Bản Trí. Hậu Đắc Trí là tác dụng của Căn Bản Trí. Lục căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài, hiểu rõ hết thảy chính là Hậu Đắc Trí. Thật Trí là Tự Thụ Dụng, vô tri. Quyền Trí là Tha Thụ Dụng, không gì chẳng biết. Hai trí đều đắc nên gọi là Đại Diệm Kiên Phật. Chính mình thụ dụng thì vô tri, cũng là “<i>vô thuyết</i>” (không nói), không nói mà nói. Không gì chẳng biết là Tha Thụ Dụng, nhằm giáo hóa chúng sanh nên có biết, có nói, nói mà chẳng nói. Chính mình vĩnh viễn ở trong cảnh giới thanh tịnh, vắng lặng, giúp đỡ chúng sanh, hòa quang đồng trần, sống động, hoạt bát, thì mới có thể giáo hóa hết thảy chúng sanh. Nhà Phật thường nói “tục <i>Phật huệ mạng, hoằng pháp lợi sanh</i>” (tiếp nối huệ mạng của Phật, hoằng pháp lợi sanh). Không có hai thứ trí huệ này sẽ chẳng làm được, chỉ có tâm từ bi xuông thì cũng chẳng sử dụng được.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ tư là Tu Di Đăng Phật (Merupradipa Buddha). Tu Di Đăng là tỷ dụ, biểu thị tu Huệ, chuyển Thức thành Trí. Núi Tu Di do bốn thứ báu hợp thành, biểu thị chuyển tám Thức thành Tứ Trí. Năm Thức trước, tức Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, là “<i>lãnh thọ</i>” (tiếp nhận). Thức thứ sáu (Ý Thức) là phân biệt. Thức thứ bảy (Mạt Na Thức) là chấp trước. Thức thứ tám ghi ấn tượng, tồn trữ thành chủng tử (hạt giống) trong cái kho A Lại Da Thức. Cổ đức nói: May là những chủng tử ấy chẳng có thể tích; nếu không, tột cùng hư không đều chẳng thể chứa đựng hết. Mỗi ngày chứa thêm chủng tử; sau khi chết, chủng tử nào có tánh chất mạnh mẽ sẽ lôi thần thức đi thọ báo trước. Khởi tâm động niệm lúc bình thường có quan hệ lớn nhất, tạo ảnh hưởng sẽ đầu thai vào đường nào. Trong lục đạo, xả thân này, thọ thân khác đều tuân theo quy luật này. Đức Phật nói mười pháp giới đều là hoàn cảnh sống của chúng ta. Nhân tố trọng yếu nhất của Phật Pháp Giới là “<i>tánh bình đẳng</i>”; hễ trong tâm khởi lên một niệm sẽ là chẳng bình đẳng. Điều kiện làm Bồ Tát là hành Lục Độ, [điều kiện làm] Duyên Giác là mười hai nhân duyên, [điều kiện làm] Thanh Văn là Tứ Đế. Đấy là Tứ Thánh Pháp Giới (Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn) ở ngoài tam giới. [Điều kiện của] Thiên Giới là Thập Thiện. Chỉ tu Thập Thiện thì chỉ có thể sanh vào các tầng trời thuộc Dục Giới. Từ Sắc Giới Thiên trở lên còn phải tu thêm Tứ Vô Lượng Tâm, tức từ, bi, hỷ, xả. [Điều kiện của] Nhân Đạo (loài người) là Ngũ Giới. Nho Gia Trung Quốc nói Ngũ Thường, tức Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, gần giống với Ngũ Giới. Thực hiện [những điều ấy] viên mãn thì đời sau chẳng mất thân người. Sốt sắng tu nhiều điều lành, nhưng lại có tập khí rất lớn, ngạo nghễ, ngã mạn, sẽ sanh vào A Tu La đạo. Keo kiệt, tham lam là ngạ quỷ đạo. Ngu si là súc sanh đạo. Nóng giận là địa ngục đạo. Trong tương lai chúng ta sẽ phải sanh vào đường nào, chính mình khi trở về nhà, hãy lắng lòng suy nghĩ thì sẽ nhận biết, chẳng cần phải hỏi ai khác! Nói theo pháp môn Niệm Phật thì là chuyển Thức thành Trí. Thân lễ kính A Di Đà Phật, miệng xưng niệm A Di Đà Phật, tâm tưởng A Di Đà Phật, chuyển Thức thứ sáu thành Diệu Quán Sát Trí. Từ đấy trở đi, chẳng còn suy nghĩ lung tung nữa, biết hết thảy pháp đều là Không, như mộng, huyễn, bọt, bóng, chuyển Mạt Na Thức thành Bình Đẳng Tánh Trí, chẳng chấp trước hết thảy pháp, tâm địa bình đẳng. Chuyển A Lại Da Thức thành Đại Viên Kính Trí, không gì chẳng biết<a href="https://www.niemphat.net/Luan/yeugiaigiangky/yeugiai9.htm#_ftn1" name="_ftnref1" title=""><span style="font-size: 14pt;">[1]</span></a>.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ năm tức vị Phật cuối cùng [ở phương </span><st1:country-region><st1:place><span style="font-size: 14pt;">Nam</span></st1:place></st1:country-region><span style="font-size: 14pt;">] là Vô Lượng Tinh Tấn Phật (Anantavirya Buddha), dạy chúng ta phương pháp tu hành. Thiện căn của Bồ Tát chỉ có một thứ là tinh tấn, thành tựu đại trí huệ. Chướng ngại lớn nhất đối với tu hành là giải đãi. Xem Cao Tăng Truyện, Cư Sĩ Truyện, không một người biếng nhác, bê trễ nào có thể thành tựu! Chúng ta rất muốn dụng công, nhưng tinh thần uể oải, nguyên nhân là do nghiệp chướng, ắt phải lập cách khắc phục. Tại Đài Bắc có một vị đồng tu lái taxi, tức cư sĩ Hứa Thu Hùng, bị bệnh, tinh thần uể oải, nhất định muốn khắc phục. Do cuộc sống ràng buộc, mỗi tháng ông tu tinh tấn niệm Phật hai lần; mỗi lần niệm Phật suốt hai ngày hai đêm không ngừng, một câu Phật hiệu niệm đến cùng. Càng niệm tinh thần càng tốt đẹp. Mỗi lần chỉ cần nghỉ ngơi hai tiếng đồng hồ liền có thể làm việc tiếp. Đừng thấy ông ta làm công việc tầm thường, nhỏ nhoi, tương lai ông ta nhất định vãng sanh. Một vị khác nữa là cư sĩ Khưu Hiển Đạt, làm việc tại Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội, hiện đang sống tại một ngôi chùa ở Phước Châu, phụ trách gởi tặng kinh sách. Ông ta là người ngoài đời, mỗi ngày ngủ đến bảy tám giờ mới dậy. Người xuất gia trong chùa ba giờ sáng đã dậy, bốn giờ tụng khóa sáng. Ông ta ở trong chùa cảm thấy hết sức hổ thẹn, chân tâm phát lộ sám hối; hiện thời đã theo mọi người làm việc, chẳng nề hà khó khăn, ai cũng phải khen ngợi. Không có chướng ngại nào chẳng thể khắc phục, chính mình phải có chí nguyện kiên cường thì mới dũng mãnh thực hiện được, xin đừng cam phận đọa lạc. Thế gian có ba thứ thiện căn là không tham, không sân, không si; hết thảy thiện pháp sanh từ những điều này. Thiện căn của Bồ Tát chỉ có một thứ là tinh tấn.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> <o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">(Kinh) Xá Lợi Phất! Tây Phương thế giới hữu Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn: “Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”.<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">(Giải) Vô Lượng Thọ Phật dữ Di Đà đồng danh, thập phương các<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">phương diện, đồng danh chư Phật vô lượng dã. Nhiên tức thị đạo sư diệc khả. Vị độ chúng sanh, bất phương chuyển tán Thích Ca Như Lai sở thuyết.<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">經</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">舍利弗。西方世界。有無量壽佛。無量相佛。無量幢佛。大光佛。大明佛。寶相佛。淨光佛。如是等。恆河沙數諸佛。各於其國。出廣長舌相。遍覆三千大千世界。說誠實言。汝等眾生。當信是。稱讚不可思議功德。一切諸佛所護念經。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">解</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">無量壽佛。與彌陀同名。十方各方面。同名諸佛無量也。然即是導師亦可。為度眾生。不妨轉讚釋迦如來所說。</span></b><span style="font-size: 14pt;"><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">(<b>Chánh kinh</b>: Trong các thế giới ở phương Tây có Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật, các đức Phật nhiều như số cát sông Hằng như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật: “Chúng sanh các ngươi hãy nên tin kinh Khen Ngợi Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này”.<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">Giải</span></i></b><i><span style="font-size: 14pt;">: Vô Lượng Thọ Phật cùng tên với A Di Đà Phật. Trong mười phương, tại mỗi phương có vô lượng chư Phật mang cùng tên. Nhưng dù cho Vô Lượng Thọ Phật chính là đạo sư A Di Đà Phật thì cũng vẫn được</span></i><span style="font-size: 14pt;">. <i>Vì độ chúng sanh nên khen ngợi lời Thích Ca Như Lai đã nói cũng đâu có trở ngại gì).<o:p></o:p></i></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Những vị Phật có cùng danh hiệu với A Di Đà Phật trong Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng biết là bao nhiêu! Vì rộng độ chúng sanh, các vị Phật khen ngợi lẫn nhau. A Di Đà Phật cũng khen ngợi Thích Ca Mâu Ni Phật, mà cũng tán thán mười phương thế giới chư Phật. Phương </span><st1:country-region><st1:place><span style="font-size: 14pt;">Nam</span></st1:place></st1:country-region><span style="font-size: 14pt;"> biểu thị tu huệ, phương Tây biểu thị tu phước. Trì danh niệm Phật là phước huệ song tu.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ nhất là Vô Lượng Thọ Phật (Amitayus Buddha), Vô Lượng Thọ tượng trưng cho phước thọ. Trong các thứ phước đức, Thọ là bậc nhất. A Di Đà dịch là Vô Lượng, chẳng những thọ mạng vô lượng, mà quang minh, trí huệ, đức năng, thần thông của Ngài đều vô lượng. Trong các thứ vô lượng, thọ mạng là cao tột nhất. Nếu không có tuổi thọ thì hết thảy những thứ khác cũng như không.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị thứ hai là Vô Lượng Tướng Phật (Amitalakśana Buddha). “<i>Tướng</i>” biểu thị phú quý. Những thầy bói trong và ngoài nước, hễ xem tướng đều phân biệt phú quý hay bần tiện. Tướng chuyển theo tâm. Tướng tốt đẹp nhất trong thế gian là Phật tướng. Phật có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp phụ. Hãy nên biết: Tướng là quả báo, có quả ắt phải có nhân. Chẳng hạn như ba đời không nói dối, đầu lưỡi có thể liếm đụng chót mũi. Kinh dạy: Bồ Tát sau khi thành Phật còn phải tu phước trong một trăm kiếp, tu tướng hảo trang nghiêm. Nhiếp thọ chúng sanh không chỉ cần phải có Huệ mà còn phải có Phước. Có người học vấn rất giỏi, nhưng giảng kinh chẳng ai thích nghe, là vì vô phước. A </span><st1:place><span style="font-size: 14pt;">Nan</span></st1:place><span style="font-size: 14pt;"> trông thấy tướng hảo của Phật liền phát nguyện xuất gia. Phật có vô lượng tướng, tướng có vô lượng hảo, ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo chính là tướng được thị hiện nơi thân Liệt Ứng của Phật Thích Ca.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ ba là Vô Lượng Tràng Phật (Amitadhvaja Buddha). Thời cổ có tràng, phan. Tràng (</span><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 14pt;">幢</span><span style="font-size: 14pt;">, dhvaja) hình tròn, còn Phan (</span><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 14pt;">幡</span><span style="font-size: 14pt;">, patākā hoặc ketu) thì dẹp. [Tràng] giống như ống thông gió ở phi trường. Tại Đại Lục và Nhật Bản vẫn còn thấy có Tràng. Tác dụng của nó là tuyên cáo hoặc thông cáo. Phật giáo là giáo dục, tôn trọng thầy, chỉ nghe “tới học”, chứ chưa nghe “đến dạy”. Nhà Phật từ xưa đến nay chưa từng nghe nói có chuyện chiêu sinh, cũng chẳng dám mang ý tưởng làm thầy người khác. Do vậy trách nhiệm tiếp dẫn đại chúng đều do học sinh. Sau này, các vị tổ sư đại đức hễ hoằng hóa ở một nơi nào, nếu trong chùa có giảng kinh, sẽ treo tràng trên cột cờ ngoài miếu, biểu thị hôm nay trong chùa có giảng kinh, ai muốn đến nghe cứ tự do tham gia. Nếu tổ chức pháp hội thì treo phan.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ tư là Đại Quang Phật (Mahaprabha Buddha) biểu thị Căn Bản Trí, vị Phật thứ năm là Đại Minh Phật (Mahanirbhasa Buddha) biểu thị Hậu Đắc Trí. Hai thứ trí huệ, “<i>đại quang</i>” là Tự Thụ Dụng, “<i>đại minh</i>” là Tha Thụ Dụng. Đối với hết thảy pháp, pháp nào Phật cũng hiểu rõ, nhưng chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, tợ hồ hoàn toàn không biết, chưa khởi tâm, chưa động niệm, vạn pháp bình đẳng, vạn pháp giống hệt như một, đấy chính là hiện tượng của Căn Bản Trí. Nếu có người hướng về Phật thưa hỏi, Phật liền giải đáp tận cội nguồn của chuyện được hỏi ấy. Đó là Hậu Đắc Trí, không gì chẳng biết.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ sáu là Bảo Tướng Phật (Ratnalakśana Buddha). Bảo (</span><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 14pt;">寳</span><span style="font-size: 14pt;">) có nghĩa là tôn quý thù thắng. Từ Vô Lượng Thọ Phật đến Bảo Tướng Phật là phước đức vô lượng vô biên. Thuyết minh đại khái đức hiệu của sáu vị Phật là “nếu không có phước sẽ chẳng thể độ chúng sanh”. Phật còn như thế, huống là từ Bồ Tát trở xuống! Thầy Lý một đời giảng kinh, thuyết pháp, mở lớp học kinh ở Đài Trung, thường bảo chúng tôi phải tu phước, kết pháp duyên với chúng sanh. Phương thức rất nhiều, như khi thầy Lý giảng kinh thì chăm sóc thính chúng nhằm kết duyên với họ. Pháp duyên của tôi rất tốt, dùng in kinh để kết duyên, càng kết càng rộng.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ bảy, tức vị Phật cuối cùng [trong phương Tây], là Tịnh Quang Phật (Suddharaśmiprabha Budda), dạy chúng ta phương pháp tu phước: Phải tịnh, phải quang minh. Tịnh là tam nghiệp thanh tịnh, tâm địa phải chánh đại quang minh. Thanh tịnh nhất định phải đoạn sạch mười ác nghiệp. Tuy tu Thập Thiện nghiệp, nhưng chẳng chấp vào tướng tu thiện, tam luân thể không, thì gọi là “tịnh nghiệp”. Trong hết thảy các bức vẽ hình Phật, phía trên có viết ba chữ bằng tiếng Phạn là “<i>Ông, A, Hồng</i>” (Aum, Ah, Hum), nghĩa là “<i>tam nghiệp thanh tịnh</i>”. Ông (Aum) là thân, A (Ah) là khẩu, Hồng (Hum) là ý. Ba nghiệp thanh tịnh, tâm địa đương nhiên chánh đại quang minh, không có tơ hào ác niệm và ngã chấp. Có Ngã sẽ có riêng tư, tâm địa chẳng quang minh. Ngã đã không có, nào còn có Ngã Sở? Phá được Ngã Chấp thì mới thật sự chánh đại quang minh. Trong Tứ Thánh Pháp Giới có tình hình như vậy. A La Hán, Bích Chi Phật phá được Ngã Chấp, lục đạo phàm phu đều có Ngã Chấp. Có tâm riêng tư sẽ chẳng bình đẳng. Có sai biệt sẽ sanh phiền não, nghiệp chướng. Muốn tu đại phước đức, phải dụng công nơi tam nghiệp thanh tịnh và tâm địa quang minh thì mới có thể thành tựu viên mãn phước đức xứng tánh. Vị Phật cuối cùng nhằm giáo hóa phương pháp tu hành.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Chư Phật trong các thế giới ở phương Tây cũng đều ở trong cõi nước của mỗi vị, giống như Phật Thích Ca, vì hết thảy chúng sanh mà tuyên giảng kinh A Di Đà, tán thán y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương thế giới, khuyến khích mọi người hãy tín nguyện trì danh cầu sanh Tịnh Độ. Do vậy, hết thảy chư Phật đều nói kinh này, khế cơ, khế lý. Phật Thích Ca thuyết pháp trong thế giới này bốn mươi chín năm, thời gian không dài, kinh điển được Ngài giảng có hạn. Những kinh chưa giảng rất nhiều, là vì những kinh khác đều chẳng khế cơ, có giảng cũng vô ích. Chỉ có pháp môn này đối với hết thảy căn cơ đều có ích, thích hợp trọn khắp hữu tình trong pháp giới, nên không có vị Phật nào chẳng giảng kinh A Di Đà.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">(Kinh) Xá Lợi Phất! Bắc phương thế giới hữu Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở Phật, Nhật Sanh Phật, Võng Minh Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn: “Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”.<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">經</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">舍利弗。北方世界。有燄肩佛。最勝音佛。難沮佛。日生佛。網明佛。如是等。恆河沙數諸佛。各於其國。出廣長舌相。遍覆三千大千世界。說誠實言。汝等眾生。當信是。稱讚不可思議功德。一切諸佛所護念經。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">(<b>Chánh kinh</b>: Trong các thế giới ở phương Bắc có Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở Phật, Nhật Sanh Phật, Võng Minh Phật, các đức Phật nhiều như số cát sông Hằng như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật: “Chúng sanh các ngươi hãy nên tin kinh Khen Ngợi Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này”).<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Tại phương Bắc cũng kể tên năm vị Phật, biểu thị sự hóa độ người khác. Trong phần trước, phương </span><st1:country-region><st1:place><span style="font-size: 14pt;">Nam</span></st1:place></st1:country-region><span style="font-size: 14pt;"> là tu Huệ, phương Tây là tu Phước. Có đại trí huệ, có đại phước đức. Khi ấy, phải làm chuyện hóa độ chúng sanh, khiến cho họ phá mê khai ngộ, lìa khổ, được vui. Sau khi phước và huệ đầy đủ, nhất định phải học theo chư Phật Như Lai, lấy hoằng pháp lợi sanh làm thiên chức.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ nhất là Diệm Kiên Phật (Arciskandha Buddha). Đại Diệm Kiên Phật trong phần trước là hai thứ trí huệ vừa mới tu thành, còn vị Diệm Kiên Phật này là phước huệ viên mãn, gánh vác gia nghiệp của Như Lai, hoằng pháp lợi sanh.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ hai là Tối Thắng Âm Phật (Vaishvanaranirghosha Buddha). Chúng sanh trong mười phương thế giới căn tánh khác nhau. Chúng sanh trong thế giới này nhĩ căn lanh lợi nhất, như trong kinh Lăng Nghiêm, Văn Thù Bồ Tát vì thế giới này chọn lựa pháp Viên Thông đã nói: “<i>Thử phương chân giáo thể, thanh tịnh tại âm văn</i>” (Chân giáo thể phương này, thanh tịnh nơi nghe tiếng). Khổng lão phu tử dạy học dùng âm thanh, Phật Thích Ca cũng giống như vậy. Không có kinh sách, văn tự, hoàn toàn dựa vào lời nói. Trong các kinh, kinh A Di Đà thù thắng nhất. Kinh Vô Lượng Thọ tuy xưng tụng là kinh bậc nhất về Tịnh Độ, giới thiệu viên mãn y báo chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương thế giới, nhưng nguyên tắc cơ bản nhất là kinh A Di Đà, vì Tín - Nguyện - Hạnh là điều kiện vãng sanh quan trọng nhất. Một lần, rồi hai lần, rồi lại ba lần khuyên lơn, khích lệ chúng ta, xót lòng rát miệng giáo huấn. Kinh văn tuy không nhiều, lời lẽ đơn giản, nhưng ý bao trùm. Tối Thắng Âm chính là dạy chúng ta hãy niệm Phật, tuyên nói kinh này.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ ba là Nan Trở Phật (Dushpradharsha Buddha), Trở (</span><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 14pt;">沮</span><span style="font-size: 14pt;">) là trở ngại, [Nan Trở (khó thể gây chướng ngại)] bao hàm ý nghĩa ủng hộ chánh pháp, dũng mãnh tinh tấn, hàng phục ma chướng. Ma chướng xảy đến là do đời đời kiếp kiếp tạo ác nghiệp vô lượng vô biên, kết oán cừu với chúng sanh quá nhiều, cho nên họ thường tới xâm phạm hãm hại. Lúc đức Phật tại thế cũng có nhiều ma nạn. Học Phật chẳng phải là thuận buồm xuôi gió. Lục Tổ Huệ Năng đại sư từng lánh nạn suốt mười lăm năm trong đám thợ săn, chẳng dám lộ diện. Ngài là người đắc đạo, là bậc Pháp Thân đại sĩ minh tâm kiến tánh mà còn như thế. Trong thế gian hiện thời, yêu ma quỷ quái chỗ nào cũng có, ắt phải có Định - Huệ để hàng phục ma oán, khắc phục hết thảy những thử thách khó khăn.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Nan Trở Phật vừa được nêu lên trên đây, tượng trưng cho ý nghĩa hoằng dương, bảo vệ chánh pháp, chẳng bị ma vương ngoại đạo, hết thảy chướng ngại ngăn trở, nhiễu loạn. Vị Phật tiếp đó, là vị thứ tư, Nhật Sanh Phật (Adityasambhava Buddha), tượng trưng sự dạy học tăng trưởng. “<i>Nhật</i>” tượng trưng trí huệ. Chỉ có đột phá hết thảy chướng ngại, khó khăn thì trí huệ mới tăng trưởng, chánh pháp mới có thể thường trụ thế gian, lợi ích chúng sanh.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật cuối cùng, thứ năm, là Võng Minh Phật (Jaliniprabha Buddha). “<i>Võng”</i> (</span><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 14pt;">網</span><span style="font-size: 14pt;">) là cái lưới, hình dung chúng sanh trầm luân trong biển khổ, Bồ Tát dùng lưới vớt lên để cứu độ họ. Vô lượng pháp môn đến cuối cùng nhất định phải dẫn về Cực Lạc. Chẳng sanh Tịnh Độ, ắt phải vào luân hồi. Chúng ta chẳng thể đoạn Kiến Tư phiền não, tập khí vọng tưởng, chấp trước thì lục đạo sẽ do đấy mà có. Có một loại chúng sanh, công phu định lực rất sâu, nhưng vẫn ở trong lục đạo, do tập khí vọng tưởng chẳng hiện hành bèn tự cho là đã đắc Đại Niết Bàn. Thật ra, họ đắc Vô Tưởng Định, vẫn ở trong lục đạo, tuy tập khí phiền não chẳng hiện hành, căn bệnh là do một tí vô minh ngăn lấp. Chỗ khó khăn của chúng sanh là chẳng rớt vào bên vọng tưởng thì sẽ rơi vào bên vô minh. Định của Phật, Bồ Tát không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, thông đạt hiểu rõ hết thảy vạn pháp, tâm địa quang minh chẳng phải là tối tăm, cảnh giới bên ngoài đều hiểu rõ. Nếu có Định rất sâu mà bất cứ chuyện gì bên ngoài cũng chẳng biết thì tu thành công bất quá là Vô Tưởng Định đó thôi! Tương lai, sau khi chết sẽ sanh lên Vô Tưởng Thiên trong Tứ Thiền Thiên, thuộc ngoại đạo, ngoại đạo là ma.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">(Kinh) Xá Lợi Phất! Hạ phương thế giới hữu Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật, Đạt Ma Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn: “Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”.<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">(Giải) Thử giới thủy luân, kim luân, phong luân chi hạ, phục hữu hạ giới Phi Phi Tưởng Thiên đẳng, nãi chí trùng trùng vô tận dã. Đạt Ma thử vân Pháp.<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">經</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">舍利弗。下方世界。有師子佛。名聞佛。名光佛。達磨佛。法幢佛。持法佛。如是等。恆河沙數諸佛。各於其國。出廣長舌相。遍覆三千大千世界。說誠實言。汝等眾生。當信是。稱讚不可思議功德。一切諸佛所護念經。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">解</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">此界水輪。金輪。風輪之下。復有下界非非想天等。乃至重重無盡也。達磨此云法。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">(<b>Chánh kinh</b>: Trong các thế giới ở phương dưới có Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật, Đạt Ma Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật, các đức Phật nhiều như số cát sông Hằng như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật: “Chúng sanh các ngươi hãy nên tin kinh Khen Ngợi Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này”.<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">Giải</span></i></b><i><span style="font-size: 14pt;">: Phía dưới thủy luân, kim luân và phong luân<a href="https://www.niemphat.net/Luan/yeugiaigiangky/yeugiai9.htm#_ftn2" name="_ftnref2" title=""><b><span style="font-size: 14pt;">[2]</span></b></a> của thế giới này lại có các cõi trời như Phi Phi Tưởng v.v... của thế giới ở phương dưới, cho đến trùng trùng vô tận. Đạt Ma được cõi này dịch là Pháp).<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Trong các thế giới ở phương dưới nêu tên sáu vị Phật, tượng trưng cho ý nghĩa phổ độ giáo hóa. Vị Phật thứ nhất là Sư Tử Phật (Simha Buddha), tỷ dụ đức Phật thuyết pháp. Sư tử là vua trong các loài thú, gầm một tiếng, trăm loài thú đều run sợ. Phật thuyết pháp thì hết thảy tà môn ngoại đạo đều bị hàng phục. Do vậy, ví Phật thuyết pháp như sư tử rống. Bồ Tát thay Phật thuyết pháp, được gọi là Pháp Vương Tử. Pháp Vương Tử thay Phật thuyết pháp, chẳng hai, chẳng khác gì Phật thuyết pháp, cũng có thể gọi là “sư tử hống”.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ hai là Danh Văn Phật (Yaśa Buddha), nói về mức độ nổi tiếng của Phật, Bồ Tát. Như tại Trung Quốc “<i>gia gia Quán Thế Âm, hộ hộ Di Đà Phật</i>” (nhà nhà Quán Thế Âm, nhà nhà Di Đà Phật), mọi người đều biết. Vị Phật này tượng trưng cho bậc nhân thiên đại sư, có năng lực, có trí huệ giáo hóa hết thảy chúng sanh, như Quán Âm, Địa Tạng, Văn Thù, Phổ Hiền, cho đến các vị tổ sư các tông phái đều là thay Phật hành hóa.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ ba là Danh Quang Phật (Yaśaprabhava Budda). Quang tượng trưng trí huệ, ứng cơ thuyết pháp, pháp âm vang xa, khiến cho hết thảy chúng sanh phá mê khai ngộ, được thụ dụng chân thật nơi Phật<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;">pháp, tức là hễ có thực chất thì danh tiếng sẽ dồn về.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ tư là Đạt Ma Phật (Dharma Buddha), tượng trưng cho sư thừa, đặc biệt chỉ Tịnh Độ Tông. Tịnh Độ Tông là do A Di Đà Phật trực tiếp truyền xuống. A Di Đà Phật truyền cho chư Phật, tổ sư các tông đều là đời đời truyền cho nhau, chỉ riêng Tịnh Độ Tông chẳng có. Lịch đại tổ sư của Tịnh Độ Tông là những vị đại đức xuất gia, cả đời chuyên tu chuyên hoằng dương Tịnh Độ Tông, người đời sau suy tôn các Ngài là “nhất đại tổ sư”. Tại Trung Quốc, từ thoạt đầu là Huệ Viễn đại sư mãi cho đến thời Dân Quốc, trong lịch sử, những vị chuyên tu, chuyên hoằng dương gồm mười ba vị, vị cuối cùng là Ấn Quang đại sư. Do vậy, tổ sư Tịnh Độ Tông được người đời tôn xưng là “đại sư”. Đại sư là tiếng tôn xưng Phật, đấy là một kiến thức thông thường trong việc học Phật. Xưng hô người khác chớ nên quá phận, chỉ có tổ sư Tịnh Độ Tông đáng gọi là đại sư, Phật có năng lực giáo hóa hết thảy chúng sanh thành Phật. Tổ sư Tịnh Độ Tông có sư thừa từ Phật, cũng dùng tín nguyện trì danh, dạy chúng sanh vãng sanh bất thoái thành Phật, giáo pháp hoàn toàn giống như chư Phật, nhân đồng, quả cũng đồng. Do vậy, gọi các Ngài là đại sư chẳng quá lố tí nào. Bồ Tát thì gọi là Đại Sĩ hoặc Khai Sĩ, Chánh Sĩ, chẳng thể gọi là đại sư.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Trước khi đức Phật diệt độ đã chỉ dạy hậu thế một phương pháp ổn thỏa, tốt đẹp là “Tứ Y Pháp”; nếu người đời sau tuân thủ Tứ Y Pháp thì sẽ chẳng khác gì khi đức Phật còn tại thế.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Thứ nhất là “<i>y pháp, bất y nhân</i>” (tuân theo pháp, đừng tuân theo người nói pháp). Trong tác phẩm chú giải Quán Kinh, Thiện Đạo đại sư đã giảng điều này hết sức rõ ràng. Kể từ những pháp sư, đại đức thông thường cho đến hàng Pháp Thân đại sĩ, Đẳng Giác Bồ Tát, nếu lời nói của các vị đại thiện tri thức ấy không tương ứng với những gì được dạy trong kinh Phật thì chớ nên tuân theo. Có kẻ còn nói quá đáng: “Mười phương chư Phật nói pháp môn Tịnh Độ do Phật Thích Ca đã nói chính là phương tiện quyền biến, thiện xảo, chẳng phải là chân thật”. Chúng ta cũng chớ nên tin theo. Bởi lẽ, Phật Phật đạo đồng, nếu nói pháp chẳng giống nhau sẽ thuộc về ngoại đạo.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Thứ hai là “<i>y nghĩa, bất y ngữ</i>” (tuân theo ý nghĩa, đừng tuân theo lời nói). Ngôn ngữ nói dài, nói ngắn, nói sâu, nói cạn, đều chẳng sao hết, hễ ý nghĩa đúng là được rồi, không cần phải chấp trước. Kinh Phật bằng tiếng Phạn từ Ấn Độ truyền sang, có rất nhiều bản dịch. Như kinh Vô Lượng Thọ có đến mười hai bản dịch, đã bị thất truyền bảy bản, hiện thời lưu truyền trong cõi đời chỉ có năm loại. Lại như kinh A Di Đà, ngài La Thập và Huyền Trang mỗi vị đều có bản dịch riêng, văn tự khác nhau, nhưng ý nghĩa chẳng khác gì. Vì thế, chớ nên tranh luận về mặt văn tự.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Thứ ba, “<i>y liễu nghĩa, bất y bất liễu nghĩa</i>”. So sánh hết thảy kinh, nếu kinh nào có thể giúp con người liễu sanh tử thì là “<i>liễu nghĩa</i>”. Có một số người chí nguyện chẳng cao, chỉ cầu phước báo nhân thiên, Phật liền giảng những kinh điển liên quan tới Ngũ Giới, Thập Thiện để thuận theo ý nguyện của họ. Trước kia, những tiểu thuyết lịch sử hoặc tuồng hát Trung Quốc diễn nói những chuyện thiện ác nhân quả báo ứng, khuyên người ta bỏ ác hướng lành, bao hàm ý nghĩa giáo dục rất sâu, có ảnh hưởng đúng đắn tới xã hội. Trong lục đạo của thế gian không có sự sung sướng thật sự, mà có thì cũng chẳng thể giữ cho nó tồn tại vĩnh viễn được! Sang như thiên tử, giàu có khắp bốn biển, hằng ngày vẫn phải ngăn ngừa kẻ khác lật đổ chánh quyền, chịu áp lực tinh thần, hồi hộp không yên, khổ não hết sức. Đức Phật nói ba cõi chẳng yên, ví như nhà lửa. Nếu con người có thể thật sự suy nghĩ thấu suốt thì mới buông xuống được, và còn tiến hơn một bước nữa là muốn vượt thoát tam giới. Nếu muốn vượt thoát tam giới mà có tâm lượng bảo thủ thì đức Phật dạy họ học pháp Tiểu Thừa, còn người tâm lượng rộng mở thì đức Phật dạy họ học Đại Thừa. Nếu cầu liễu nghĩa rốt ráo thì trong vô lượng vô biên pháp môn, chỉ có “tín nguyện trì danh” của kinh A Di Đà là có thể chứng đắc viên mãn Phật quả ngay trong một đời.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Thứ tư, “<i>y Trí, bất y Thức</i>”. Trí là lý trí, Thức là tình thức. Điều này dạy chúng ta nên vận dụng thái độ nào để chọn lựa pháp môn tu học. Lục đạo, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, mỗi một giai đoạn đều là giai đoạn sau vượt trội giai đoạn trước, giai đoạn sau là liễu nghĩa, giai đoạn trước là bất liễu nghĩa. Chẳng hạn như đem Bồ Tát so với Phật thì Phật là liễu nghĩa, Bồ Tát là chẳng liễu nghĩa. Cứ suy luận tương tự như vậy, chúng ta phải dùng lý trí để chọn lựa pháp môn liễu nghĩa rốt ráo, xin hãy đừng vì cảm tình vướng mắc mà chọn pháp môn chẳng liễu nghĩa. Kinh A Di Đà là liễu nghĩa nhất trong các môn liễu nghĩa, là Đại Thừa nhất trong các pháp Đại Thừa. Nay ta đã tiếp nhận pháp môn liễu nghĩa rốt ráo này thì bất cứ pháp môn nào khác cũng nhất định phải nên triệt để buông xuống, chính mình phải có lý trí, đừng chịu ảnh hưởng của người khác. Tôi thường khuyên các đồng tu, chúng ta quy y A Di Đà Phật, làm đệ tử tốt của Phật, nương theo Trí, đừng dựa theo Thức. Đặc biệt là kinh Di Đà và chương [Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật] Viên Thông đã chuyên giảng nói [pháp môn Tịnh Độ] đến tột bậc, thuần đến tột bậc. Một bộ kinh, thậm chí một câu danh hiệu là đủ rồi, những thứ khác đều buông xuống hết, tâm sẽ Định. Lão cư sĩ Hạ Liên Cư bảo Đại Thế Chí Bồ Tát là Sơ Tổ của Tịnh Tông trong pháp giới, Ngài dạy chúng ta niệm “chẳng cần đến phương tiện nào khác mà tâm tự được khai ngộ”. Chẳng cần đến phương pháp nào khác để phụ trợ, một câu Phật hiệu sẽ thành công. “<i>Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế</i>” (Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm liên tục), quyết định chẳng để xen tạp! Học Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, đều gây chướng ngại cho tâm thanh tịnh. Hãy học theo tổ sư, đại đức, “<i>Tam Tạng mười hai bộ kinh nhường cho người khác ngộ!</i>” Đó là sự chọn lựa bằng trí huệ đấy nhé.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Kinh A Di Đà là tiểu bổn của kinh Vô Lượng Thọ, là bản tinh túy nhất. Kinh Vô Lượng Thọ là kinh Di Đà được giảng cặn kẽ. Vì thế, cổ nhân gọi là Đại Bổn và Tiểu Bổn. Tịnh Độ là chỗ quy túc của Hoa Nghiêm, mà cũng là tổng kết của Hoa Nghiêm. Bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ của cụ Hạ gồm bốn mươi tám phẩm, trong ấy lấy phẩm thứ sáu “bốn mươi tám nguyện” làm bậc nhất. Trong bốn mươi tám nguyện, tuân theo cách giảng của cổ nhân thì nguyện thứ mười tám là bậc nhất. Nguyện thứ mười tám là “mười niệm ắt sanh”. Do điều này, có thể thấy rõ: Trì danh niệm Phật là bậc nhất. Niệm một tiếng A Di Đà Phật chính là niệm hết thảy chư Phật. Một chính là hết thảy, hết thảy chính là một. Đọc một bộ kinh A Di Đà giống như đọc vô lượng vô biên kinh luận của mười phương tam thế chư Phật đã giảng. Những kinh luận khác đều có thể buông xuống.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ năm là Pháp Tràng Phật (Dharmadhvaja Buddha). <i>“Pháp Tràng”</i> là làm mẫu cho chúng sanh. Dựng pháp tràng là phổ biến, tuyên dương pháp môn, kinh điển, tạo dựng pháp tràng đấy! Đầu thời Dân Quốc, Ấn Quang pháp sư lập đạo tràng tại Tô Châu, là đạo tràng Tịnh Tông duy nhất thời ấy. Bất cứ ai chỉ muốn chuyên tu Tịnh Độ đều được hoan nghênh, lại còn quy định “<i>không thâu nhận đồ đệ, không truyền giới, không giảng kinh, không tổ chức pháp hội</i>”. Một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày đều niệm Phật, mỗi ngày đều giống như đả Phật thất. Hiện thời, chúng ta kiến lập đạo tràng, cũng mong noi theo quy củ của Ấn Tổ (tổ Ấn Quang), nhưng nhất định phải giảng kinh, vì con người hiện thời hiểu lầm Tịnh Độ rất sâu, nhất định phải nói rõ ràng, khiến cho những người đã nhập môn tâm sẽ Định, người chưa nhập môn nghe xong sẽ khởi lòng ngưỡng mộ. Giảng đường và Niệm Phật Đường phải tách rời, nghe kinh hay niệm Phật tùy ý. Mỗi ngày giảng kinh hai tiếng, niệm Phật tám tiếng, phổ biến Tịnh Tông, hoằng dương trên toàn thế giới, ấy là thật sự báo ân Phật.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ sáu là Trì Pháp Phật (Dharmadhara Buddha), học nhân Tịnh Tông ắt phải tùy thuận giáo huấn chân thật của chư Phật, quyết chí cầu vãng sanh, vĩnh viễn không ngờ vực.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">(Kinh) Xá Lợi Phất! Thượng phương thế giới hữu Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật, Sa La Thụ Vương Phật, Bảo Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thực ngôn: “Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”.<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">經</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">舍利弗。上方世界。有梵音佛。宿王佛。香上佛。香光佛。大燄肩佛。雜色寶華嚴身佛。娑羅樹王佛。寶華德佛。見一切義佛。如須彌山佛。如是等。恆河沙數諸佛。各於其國。出廣長舌相。遍覆三千大千世界。說誠實言。汝等眾生。當信是。稱讚不可思議功德。一切諸佛所護念經。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">(<b>Chánh kinh</b>: Trong các thế giới ở phương trên có Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật, Sa La Thụ Vương Phật, Bảo Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật, các đức Phật nhiều như số cát sông Hằng như thế đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật: “Chúng sanh các ngươi hãy nên tin kinh Khen Ngợi Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này”).<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><i><span style="font-size: 14pt;"> </span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Trong phương trên, nói ra danh hiệu của mười vị Phật. “<i>Mười</i>” biểu thị đại viên mãn, giác hạnh viên mãn, một đời thành Phật, [nói như vậy] để tổng kết. Phải hơn bốn mươi năm tôi mới nhận biết giá trị của Tịnh Độ, quả thật chẳng dễ dàng. Có người gặp được pháp môn này, ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ, thật đáng tiếc!<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ nhất là Phạm Âm Phật (Brahmahghosa Buddha). Phạm Âm là thuyết pháp thanh tịnh. Trong sáu phương Phật, [danh hiệu những vị Phật ở] phương Đông thể hiện thái độ cơ bản để tu học, mục tiêu mong cầu và cương lãnh của phương pháp tu hành. [Danh hiệu các vị Phật ở] phương </span><st1:country-region><st1:place><span style="font-size: 14pt;">Nam</span></st1:place></st1:country-region><span style="font-size: 14pt;"> chỉ rõ pháp môn này nương vào trí huệ sẵn có trong tâm tánh, có đại trí huệ thì mới có thể chọn lựa pháp môn này. [Danh hiệu những vị Phật ở] phương Tây dạy chúng ta tu phước, niệm Phật là biến phước đức do A Di Đà Phật đã tu trong vô lượng kiếp thành phước đức của chính mình. Trong một câu Phật hiệu có tin thật, nguyện thiết, trì danh, một mà ba, ba nhưng một thì gọi là “tương ứng”. Phước huệ thành tựu sẽ gánh vác sự nghiệp giáo hóa chúng sanh của Như Lai. Đến phương dưới là thực hiện sự nghiệp phổ biến, giáo hóa rộng rãi, cho đến phương trên là viên mãn rốt ráo. Vị Phật thứ nhất [biểu thị] sự thuyết pháp thanh tịnh. Nếu trong lời thuyết pháp mà còn có danh văn, lợi dưỡng sẽ chẳng thanh tịnh. Làm nhiều chuyện lợi ích chúng sanh, nhưng trong tâm sạch sẽ, chẳng có tí nhiễm trước nào. Kinh Kim Cang dạy: “<i>Nhược Bồ Tát hữu Ngã Tướng, Nhân Tướng, Chúng Sanh Tướng, Thọ Giả Tướng, tức phi Bồ Tát</i>” (Nếu Bồ Tát có tướng Ta, tướng Người, tướng Chúng Sanh, tướng Thọ Giả thì chẳng phải là Bồ Tát). Đấy là lời khai thị thuộc nửa phần đầu kinh Kim Cang. Nửa phần sau là nói đến “<i>Ngã Kiến</i>”. Kiến (</span><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 14pt;">見</span><span style="font-size: 14pt;">) là ý niệm. Làm hết thảy thiện hạnh, nhưng tâm giống như chẳng có chuyện gì [thì gọi là không có Ngã Kiến, cho đến không có Tứ Kiến].<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ hai là Tú Vương Phật (Nakshatraraja Buddha). Chữ Tú (</span><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 14pt;">宿</span><span style="font-size: 14pt;">) đọc âm Tú (</span><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 14pt;">秀</span><span style="font-size: 14pt;">). Tinh Tú là những chòm sao ta thấy vào ban đêm. Trong ấy, tinh cầu lớn nhất là mặt trăng, tượng trưng pháp Đại Thừa thù thắng nhất do đức Phật đã giảng, là con đường tắt nơi vô thượng đạo.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ ba là Hương Thượng Phật (Gandhottama Buddha), tượng trưng cho con đường tắt trong các pháp Đại Thừa, tức Thiền Tông. Phẩm thứ năm, tức phẩm Sám Hối trong Lục Tổ Đàn Kinh chính là truyền dạy phương pháp tu học trong Thiền Tông. Năm phần Pháp Thân Hương là Giới Hương, Định Hương, Huệ Hương, Giải Thoát Hương và Giải Thoát Tri Kiến Hương. Thiền Tông là pháp Đại Thừa nhất trong các pháp Đại Thừa, tượng trưng cho con đường gần nhất trong những con đường<a href="https://www.niemphat.net/Luan/yeugiaigiangky/yeugiai9.htm#_ftn3" name="_ftnref3" title=""><span style="font-size: 14pt;">[3]</span></a>.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ tư là Hương Quang Phật (Gandhaprabhasa Buddha), tượng trưng cho Tịnh Tông. Trong Niệm Phật Viên Thông Chương, Đại Thế Chí Bồ Tát gọi [Tịnh Tông] là Hương Quang Trang Nghiêm. Điểm đặc sắc của Tây Phương là quang minh và hương báu, bất cứ vật chất nào cũng đều tỏa hương. Cõi Tây Phương hương báu tỏa ngát lan xa, là thế giới được trang nghiêm bởi mùi thơm và ánh sáng (hương quang trang nghiêm). Tịnh Độ Tông là con đường tắt nhất trong những con đường tắt, là con đường tắt nhất. Ba vị Phật này hiển thị liễu nghĩa viên mãn rốt ráo. Nếu thật sự hiểu rõ, sẽ biết chọn lựa pháp môn như thế nào.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ năm là Đại Diệm Kiên Phật (Maharciskandha Buddha). Danh hiệu này đã được giải thích trong phần trước, nhưng ở đây mang ý nghĩa khác với phần trước. Danh hiệu trong phần trước biểu thị hai thứ trí huệ Quyền Trí và Thật Trí của chính mình đã thành tựu, có thể gánh vác gia nghiệp của Như Lai. Ở đây, danh hiệu này biểu thị giai đoạn viên mãn, đem pháp môn thù thắng nhất truyền cho những người hữu duyên trong đại chúng, để họ được thụ dụng chân thật. Người vô duyên cũng phải truyền, nếu đời này họ chẳng thụ dụng được thì một phen thoảng qua tai, vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo. Trong A Lại Da Thức của người ấy có chủng tử danh hiệu A Di Đà Phật. Thậm chí đến vô lượng kiếp sau, gặp được duyên, cũng có thể vãng sanh. Gặp hết thảy chúng sanh, hãy đều nên truyền “<i>vô thượng đảnh pháp</i>” (pháp không còn gì cao hơn được) cho họ. Niệm Phật niệm ra tiếng khiến cho người ta nghe thấy là “truyền trao”. Hiện thời chúng ta có rất nhiều tấm băng dính (sticker) in chữ A Di Đà Phật, người khác trông thấy liền niệm một tiếng A Di Đà Phật, họ đã gieo cái nhân thành Phật.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ sáu là Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật (Ratna-kusuma-sampushpitagatra Buddha). Khi Phật còn tại thế, kinh giảng về sự “viên mãn trong một đời” thì chỉ có một bộ kinh Hoa Nghiêm, lấy sự tu hành của Thiện Tài làm mẫu. Thiện Tài Bồ Tát viên mãn trong một đời, quả thật là do mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc của Phổ Hiền Bồ Tát nên mới có thể viên mãn trong một đời. “<i>Tạp Sắc Bảo Hoa</i>” hình dung một vườn hoa lớn, tỷ dụ Phật nói vô lượng vô biên pháp môn, không sót một pháp nào đều được bao gồm trong ấy.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị thứ bảy là Sa La Thụ Vương Phật (Sālendraraja Buddha). Cây Sa La (Sāla) mọc tại Ấn Độ, hết sức cứng chắc. Ở đây, “<i>Sa La Thụ</i>” biểu thị sự chứng đắc kiên cố rốt ráo viên mãn, tức là Phật quả trong Viên Giáo, thật sự là Đại Pháp Vương, và cũng biểu thị Mật Tông, chỉ rõ “<i>Tịnh - Mật bất nhị</i>”. Tịnh và Thiền là pháp Bất Nhị, một câu “<i>A Di Đà Phật</i>” chính là cảnh giới vô thượng thậm thâm vi diệu Thiền mà cũng là thậm thâm Mật. Danh hiệu A Di Đà Phật thuần túy là tiếng Phạn, chẳng phiên dịch thành tiếng Hoa, là vô thượng mật chú, là pháp môn Đại Tổng Trì, bao gồm hết thảy Đại Thừa, Thiền Tông, Mật Tông cũng như Tiểu Thừa, viên tu, viên chứng.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ tám là Bảo Hoa Đức Phật (Ratnotpalaśri Buddha), biểu thị Báo Thân viên mãn.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ chín là Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật (Sarvarthadarsha Buddha), biểu thị trăm ngàn ức Hóa Thân, như kinh Kim Cang đã nói: Như Lai ngũ nhãn viên minh, ứng khắp các căn cơ, chính là <i>“kiến nhất thiết nghĩa</i>” (thấy hết thảy các nghĩa).<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Vị Phật thứ mười là Như Tu Di Sơn Phật (Sumerukalpa Buddha), biểu thị Pháp Thân thanh tịnh, là bản thể của vạn hữu trong vũ trụ.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Ba vị Phật cuối cùng biểu thị Pháp Thân, Báo Thân và Ứng Hóa Thân, một Thể ba thân, cùng với ba vị Phật ở phương Đông trước sau hô ứng. [Danh hiệu của ba vị Phật] ở phương Đông trong phần trước nhằm nêu ra những điều mà chúng ta hướng đến, mong cầu. Ba vị Phật cuối cùng trong phương trên nhằm biểu thị điều chúng ta đích thân muốn tự chứng đắc. Đức Thế Tôn nói ra danh hiệu chư Phật bao hàm những ý nghĩa hết sức sâu xa, ngầm dạy cho người niệm Phật lộ trình để theo đuổi trong một đời từ lúc Sơ Phát Tâm cho đến khi viên mãn Bồ Đề. Con đường ấy trải qua sáu giai đoạn, hãy nên vâng theo, phụng hành như thế nào? Phật độ chúng sanh, chúng sanh tiếp nhận sự chỉ dạy của Phật có khó - dễ, sâu - cạn sai khác, nói chung là vì một chữ Duyên. Đức Phật thuyết pháp có thể phát khởi thiện căn trong quá khứ của chúng sanh, làm Tăng Thượng Duyên. Đồng thời do quang minh và nguyện lực của Phật gia trì, nên tâm người niệm Phật đắc Định, trí huệ tăng trưởng, ma chẳng thể thừa dịp khuấy nhiễu được!<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">(Giải) Thử giới Phi Phi Tưởng thiên chi thượng, phục hữu thượng giới phong luân, kim luân, cập tam giới đẳng, trùng trùng vô tận dã.<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">Vấn: </span></i></b><st1:place><b><i><span style="font-size: 14pt;">Chư</span></i></b></st1:place><b><i><span style="font-size: 14pt;"> phương tất hữu Tịnh Độ, hà thiên tán Tây Phương?<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">Đáp: Thử diệc phi thiện vấn. Giả sử tán A Súc Phật quốc, nhữ hựu nghi thiên Đông phương, triển chuyển hý luận!<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">Vấn: Hà bất biến duyên pháp giới?<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">Đáp: Hữu tam nghĩa, linh sơ cơ dị tiêu tâm cố, A Di bổn nguyện thắng cố, Phật dữ thử độ chúng sanh thiên hữu duyên cố. Cái Phật độ sanh, sanh thọ hóa, kỳ gian nan dị, thiển thâm, tổng tại ư duyên. Duyên chi sở tại, ân đức hoằng thâm, chủng chủng giáo khải, năng linh hoan hỷ tín nhập, năng linh xúc động túc chủng, năng linh ma chướng nan giá, năng linh thể tánh khai phát. Chư Phật bổn tùng Pháp Thân thùy tích, cố kết duyên chủng. Nhược thế, xuất thế, tất bất khả tư nghị. Tôn long ư giáo thừa, cử dương ư hải hội, thấm nhập ư khổ hải, từ khế ư Tịch Quang. Sở dĩ vạn đức khâm thừa, quần linh củng cực. Đương tri Phật chủng tùng duyên khởi, duyên tức pháp giới, nhất niệm, nhất thiết niệm, nhất sanh, nhất thiết sanh, nhất hương, nhất hoa, nhất thanh, nhất sắc, nãi chí thọ sám, thọ ký, ma đảnh, thùy thủ. Thập phương tam thế, mạc bất biến dung. Cố thử Tăng Thượng Duyên nhân, danh “pháp giới duyên khởi”. Thử chánh sở vị “biến duyên pháp giới” giả dã. Thiển vị nhân,</span></i></b><span style="font-size: 14pt;"> <b><i>tiện khả quyết chí chuyên cầu, thâm vị nhân, diệc bất tất xả Tây Phương, nhi biệt cầu Hoa Tạng. Nhược vị Tây Phương thị Quyền, Hoa Tạng thị Thật, Tây Phương tiểu, Hoa Tạng đại giả, toàn đọa chúng sanh biến kế chấp tình, dĩ bất đạt Quyền Thật nhất thể, Đại Tiểu vô tánh cố dã.</i><o:p></o:p></b></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">解</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">此界非非想天之上。復有上界風輪。金輪。及三界等。重重無盡也。問。諸方必有淨土。何偏讚西方。答。此亦非善問。假使讚阿閦佛國。汝又疑偏東方。展轉戲論。問。何不遍緣法界。答有三義。令初機易標心故。阿彌本願勝故。佛與此土眾生偏有緣故。蓋佛度生。生受化。其間難易淺深。總在於緣。緣之所在。恩德弘深。種種教啟。能令歡喜信入。能令觸動宿種。能令魔障難遮。能令體性開發。諸佛本從法身垂跡。固結緣種。若世出世。悉不可思議。尊隆於教乘。舉揚於海會。沁入於苦海。慈契於寂光。所以萬德欽承。群靈拱極。當知佛種從緣起。緣即法界。一念一切念。一生一切生。一香一華。一聲一色。乃至受懺授記。摩頂垂手。十方三世。莫不遍融。故此增上緣因。名法界緣起。此正所謂遍緣法界者也。淺位人。便可決志專求。深位人。亦不必捨西方。而別求華藏。若謂西方是權。華藏是實。西方小。華藏大者。全墮眾生遍計執情。以不達權實一體。大小無性故也。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> <i>(<b>Giải</b>: Trên trời Phi Phi Tưởng của cõi này, lại có phong luân, kim luân và tam giới v.v... của cõi trên, trùng trùng vô tận.<o:p></o:p></i></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><i><span style="font-size: 14pt;"> Hỏi: Trong các phương ắt có Tịnh Độ, cớ gì phải riêng khen ngợi Tây Phương?<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><i><span style="font-size: 14pt;"> Đáp: Đây cũng chẳng phải là lời hỏi đúng lý! Giả sử khen ngợi cõi A Súc Phật thì ông lại nghi vì sao riêng khen ngợi Đông phương? Quẩn quanh đùa bỡn như thế đó!<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><i><span style="font-size: 14pt;"> Hỏi: Sao không nghĩ niệm trọn khắp pháp giới?<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><i><span style="font-size: 14pt;"> Đáp: Là do có ba nghĩa: Nhằm làm cho hàng sơ cơ dễ biết chỗ để<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><i><span style="font-size: 14pt;">chú tâm, do A Di Đà Phật có bổn nguyện thù thắng, do Phật đặc biệt có duyên với chúng sanh cõi này. Ấy là vì Phật hóa độ chúng sanh, chúng</span></i><span style="font-size: 14pt;"> <i>sanh tiếp nhận sự giáo hóa, trong ấy có [tình trạng] khó - dễ, cạn - sâu, nói chung là do duyên. Duyên đã có, ân đức rộng sâu, đủ mọi cách dạy bảo, khơi gợi thì sẽ có thể làm cho [chúng sanh] vui vẻ tin tưởng, chứng nhập, có thể dấy động chủng tử từ trong quá khứ, có thể làm cho ma khó thể gây chướng ngại, ngăn trở, có thể làm cho thể tánh khai phát. Chư Phật vốn từ Pháp Thân mà thị hiện hình tích, tạo duyên sâu chắc với chúng sanh. Dù là [so với] pháp thế gian hay xuất thế gian, [pháp môn này] luôn luôn là chẳng thể nghĩ bàn, nên nó được tôn trọng nhất trong các giáo pháp và tam thừa Phật pháp, được tuyên dương trong các hội [giảng kinh rộng lớn như] biển cả [của chư Phật], thấm sâu trong biển khổ, từ bi khế hợp với Tịch Quang. Do vậy, các bậc vạn đức (chư Phật) đều kính trọng, tuân giữ, các sanh linh đều ngưỡng mộ tuân hành đến tột bậc. Hãy nên biết rằng: Phật chủng (hạt giống thành Phật) từ duyên mà khởi, duyên chính là pháp giới. Niệm một tức là niệm hết thảy, sanh về một là sanh về hết thảy, một hương, một hoa, một tiếng, một sắc, cho đến chấp nhận [kẻ có tội đối trước Phật] sám hối, thọ ký, xoa đầu, duỗi tay, mười phương ba đời không gì chẳng dung hội trọn khắp. Vì thế, tăng thượng duyên nhân gọi là “pháp giới duyên khởi”. Đây chính là</i> <i>“duyên trọn khắp pháp giới” vậy. Người thuộc địa vị cạn sẽ quyết chí chuyên cầu, mà người ở địa vị sâu cũng chẳng cần phải bỏ Tây Phương để riêng cầu Hoa Tạng. Nếu bảo Tây Phương là Quyền, Hoa Tạng là Thật, Tây Phương là Tiểu Thừa, Hoa Tạng là Đại Thừa, tức là hoàn toàn rơi vào tình thức Biến Kế Chấp của chúng sanh, bởi chẳng thấu hiểu Quyền và Thật cùng một Thể, Tiểu Thừa và Đại Thừa chẳng có tánh vậy).<o:p></o:p></i></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> Mười phương thế giới vô lượng vô biên chư Phật Như Lai, không một vị Phật nào chẳng khen ngợi Tây Phương Cực Lạc thế giới, khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn. Công đức chẳng thể nghĩ bàn ấy nếu dựa trên kinh này thì có thể nêu ra ba điều về mặt Sự:<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">- Thứ nhất là hoàn cảnh y báo của Tây Phương thế giới là chẳng thể nghĩ bàn.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">- Thứ hai là chánh báo tức Phật Di Đà và những người vãng sanh Cực Lạc từ mười phương thế giới thành tựu chẳng thể nghĩ bàn.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">- Thứ ba là thuyết pháp chẳng thể nghĩ bàn.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Người đời thường mong cầu Phật, Bồ Tát ban ân che chở, nếu chúng<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;">ta đọc bộ kinh này, chiếu theo lý luận và phương pháp tu hành được dạy trong kinh điển, chắc chắn sẽ được hết thảy chư Phật hộ niệm. Xin lại xem lời chú giải của đại sư.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> Phương trên của thế giới chúng ta có tầng tầng vô tận các thế giới Phật. Có người hoài nghi: Hết thảy chư Phật đều có Tịnh Độ, sao lại chỉ tán thán mình cõi Tây Phương? Thật ra, các phương tuy đều có Tịnh Độ, nhưng chẳng sánh bằng Tây Phương Cực Lạc thế giới vì Cực Lạc có ba điều như trên đây vừa nói: Hoàn cảnh y báo, đại chúng thành tựu, và thuyết pháp viên mãn. Những cõi Tịnh Độ khác chẳng có những điều ấy. Đại sư giải đáp lại càng tuyệt hơn nữa: Lời người ấy hỏi chẳng cao minh gì! Giả sử tán thán cõi A Súc Phật ở phương Đông, ắt người ấy sẽ hỏi vì sao lại riêng khen ngợi phương Đông. Đấy hoàn toàn là hý luận, chẳng đáng bàn tới!<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> Lại hỏi: Sao chẳng duyên trọn khắp pháp giới? Đại sư đáp: Có ba nghĩa:<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> 1) Duyên trọn pháp giới nói thì dễ dàng, nhưng thực hiện khó lắm. Duyên trọn khắp pháp giới là dùng tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, phá một phẩm vô minh, thấy một phần chân tánh, là cảnh giới của Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, phàm phu chẳng làm được! Tâm có phân biệt, chấp trước sẽ chẳng thể duyên trọn khắp pháp giới. Vì những chúng sanh đới nghiệp, sơ cơ học Phật, chưa đoạn phiền não mà chỉ ra một phương hướng, một mục tiêu thì trong phương diện tu học, họ sẽ dễ thực hiện thuận theo lòng nghĩ.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">2) [Người ấy lại vặn hỏi] nếu chỉ nêu một mình cõi Tây Phương để hàng sơ cơ dễ có phương hướng xác định nhằm tu tập cái tâm thì lấy các phương Đông, </span><st1:country-region><st1:place><span style="font-size: 14pt;">Nam</span></st1:place></st1:country-region><span style="font-size: 14pt;">, Bắc làm mục tiêu cũng chẳng phải là không được, sao cứ nhất định phải nêu lên Tây Phương? Lý do thứ hai là vì A Di Đà Phật có bổn nguyện thù thắng. Nhằm tiếp dẫn chúng sanh, nên khi tu nhân Phật Di Đà đã phát ra bốn mươi tám nguyện, vượt trỗi lời nguyện của các vị Phật khác, thật là thù thắng viên mãn. Cho nên, đặc biệt chỉ bày Tây Phương.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">3) A Di Đà Phật đặc biệt có duyên với cõi này. Hết thảy các pháp dù thế gian hay xuất thế gian đều do duyên. Nếu vô duyên thì đôi bên gặp mặt cũng chẳng biết nhau. Mười phương chư Phật chẳng có duyên thù thắng với cõi này như A Di Đà Phật. Vì vậy, chúng ta cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ khá dễ dàng. Trong kinh Đại Thừa, đức Thế Tôn nói “<i>thế giới là duyên sanh</i>”, tức là “<i>do duyên mà các pháp được sanh”,</i> giữa người với người cũng giống như vậy. Người nào đó đặc biệt có duyên với quý vị thì quý vị nói với người ấy, người ấy sẽ tin tưởng. Duyên có thiện duyên và ác duyên. Phật pháp là thiện duyên, nhưng trong thời kỳ Mạt pháp, có rất nhiều Phật giáo đồ dựa vào Phật để gạt gẫm người khác, trong Quán Kinh và Vô Lượng Thọ Kinh nhắc tới chuyện này rất nhiều. Không chỉ Phật giáo, ngay cả Cơ Đốc giáo cũng nói đến chuyện thời đang gặp lúc mạt, tai họa dồn dập, tà ma, trá ngụy luôn xuất hiện, quan điểm khá giống nhau. Nếu có thể y giáo phụng hành thì sẽ có thể khai ngộ bổn tánh, ma chướng chẳng có dịp gây hại được. Chư Phật Như Lai chứng đắc Pháp Thân viên mãn, Pháp Thân là bản thể của muôn loài trong vũ trụ. Chư Phật giác ngộ, biết tận cùng hư không, trọn khắp pháp giới có cùng một Thể với chính mình, nên bảo là “<i>cố kết duyên chủng</i>” (đã gieo duyên sâu chắc). Đã là một Thể, ắt sẽ chiếu cố. Khi duyên của chúng sanh chín muồi, Phật liền đến độ kẻ ấy.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">“<i>Tôn long ư giáo thừa</i>”: Giáo là mười hai phần giáo, còn Thừa là tam thừa Phật pháp (Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa). Trong hết các kinh, kinh này được tôn xưng long trọng nhất. <i>“Cử dương ư hải hội</i>”: Hết thảy các đạo tràng giảng kinh của chư Phật trong tận hư không, trọn pháp giới, không đạo tràng nào chẳng giảng kinh A Di Đà. <i>“Thấm nhập ư khổ hải”</i>: Chữ “<i>khổ hải</i>” chỉ lục đạo. A Di Đà Phật và hết thảy chư Phật có duyên sâu đậm với cõi này, tuyên dương pháp môn này, chúng sanh đều có thể tin sâu chẳng nghi, phát nguyện cầu vãng sanh. “<i>Từ khế ư Tịch Quang”: “Từ”</i> là từ bi. Chư Phật giới thiệu pháp môn thành Phật này cho phàm phu, lòng từ bi đến tột cùng! Kinh Đại Thừa nói Bồ Tát thành Phật, chứ Thanh Văn, Duyên Giác chẳng thể thành Phật. Trời, người càng chẳng có phần. Pháp môn này chung khắp từ địa ngục A Tỳ cho đến cõi Thường Tịch Quang, một mực tự nâng cao [cảnh giới] cho đến khi viên mãn Phật quả trong Tịch Quang. Đây là pháp Đại Thừa nhất trong các pháp Đại Thừa, là liễu nghĩa nhất trong những pháp liễu nghĩa.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">“<i>Sở dĩ, vạn đức khâm thừa, quần linh củng cực</i>” (Do vậy, các bậc vạn đức đều kính trọng, tuân giữ, các sinh linh đều ngưỡng mộ tuân hành đến tột bậc): Chữ “<i>vạn đức</i>” chỉ chư Phật, mười phương hết thảy chư Phật đều tôn kính, thừa sự. Chữ “<i>quần linh</i>” chỉ các vị thượng thiện nhân trong cõi Tây Phương, mà cũng có thể giải thích là vô lượng Bồ Tát trong mười phương, ai nấy đều tiếp nhận sự giáo huấn của A Di Đà Phật.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">“<i>Phật chủng tùng duyên khởi, duyên tức pháp giới</i>”: Bậc Pháp Thân đại sĩ từ Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo trở lên mới thực hiện được “<i>biến duyên pháp giới</i>” (duyên trọn khắp pháp giới). Vị ấy phải có tâm bình đẳng, tâm thanh tịnh thì mới có thể duyên trọn khắp. Lý luận và phương pháp của Tịnh Tông ngầm hợp với thanh tịnh, bình đẳng. Nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, nhất tâm chính là thanh tịnh, bình đẳng, không phân biệt, chẳng chấp trước, chẳng có giới hạn. “<i>Nhất sanh, nhất thiết sanh</i>”: Sanh về Tây Phương Tịnh Độ chính là sanh về mười phương hết thảy cõi nước. Một hương, một hoa, một tiếng, một sắc, cho đến tiếp nhận sự sám hối của chúng sanh, thọ ký [người ấy sẽ thành Phật], xoa đỉnh đầu, duỗi tay, khởi tâm động niệm, không gì chẳng dung hợp trọn khắp. Đấy là chân tâm thường trụ. Tâm của chúng ta là vọng tâm, chưa thể thường trụ, nên gọi là “<i>tâm viên, ý mã</i>” (tâm như vượn nhảy nhót tung tăng, ý như ngựa chạy lồng). Dùng phương pháp Niệm Phật để đạt đến cảnh giới này, khiến cho chân tâm bổn tánh thời thời khắc khắc hiện tiền. Trọn chớ nên coi nhẹ phương pháp Niệm Phật! Ai thật sự phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ thì người ấy đã “<i>duyên trọn khắp pháp giới</i>”.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Chữ “<i>thiển vị nhân</i>” (người thuộc địa vị cạn) chỉ kẻ thiếu công phu, phiền não nặng nề, nghiệp chướng sâu đậm, không thể dựa vào tự lực để liễu sanh tử, thoát tam giới, hãy nên hạ quyết tâm chuyên cầu vãng sanh Tây Phương. “<i>Thâm vị nhân</i>” (người thuộc địa vị sâu) là người có công phu, có thể đoạn phiền não, liễu sanh tử, thoát tam giới, chứng Bồ Đề, cũng chẳng cần phải đi lòng vòng, bỏ Tây Phương để cầu nhập Hoa Tạng trước. Đợi đến khi sanh vào thế giới Hoa Tạng, gặp gỡ Phổ Hiền Bồ Tát, lại phải dựa vào mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc!<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">(Kinh) Xá Lợi Phất! Ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh? Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thị kinh, thọ trì giả, cập văn chư Phật danh giả, thị chư thiện nam tử, thiện nữ nhân giai vi nhất thiết chư Phật chi sở hộ niệm, giai đắc bất thoái chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Thị cố Xá Lợi Phất! Nhữ đẳng giai đương tín thọ ngã ngữ cập chư Phật sở thuyết.<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">經</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">舍利弗。於汝意云何。何故名為一切諸佛所護念經。舍利弗。若有善男子。善女人。聞是經受持者。及聞諸佛名者。是諸善男子。善女人。皆為一切諸佛之所護念。皆得不退轉於阿耨多羅三藐三菩提。是故舍利弗。汝等皆當信受我語。及諸佛所說。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">(<b>Chánh kinh</b>: Này Xá Lợi Phất! Ý ông nghĩ sao? Vì sao gọi kinh này có tên là “kinh được hết thảy chư Phật hộ niệm”? Này Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe kinh này mà thọ trì cùng nghe danh</span></i><span style="font-size: 14pt;"> <i>hiệu của chư Phật thì các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đều được hết thảy chư Phật hộ niệm, đều chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì thế, Xá Lợi Phất! Các ông hãy nên tin nhận lời ta và lời chư Phật nói).<o:p></o:p></i></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Xá Lợi Phất tuy là bậc đại trí, nhưng Phật hỏi Ngài: “Ý ông nghĩ sao?” thì Xá Lợi Phất cũng chẳng đáp được một câu. Do vậy, đức Phật giải thích: Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân; chữ Thiện này chỉ những người thiện căn, phước đức chín muồi, nghe xong sẽ hoan hỷ, tin sâu chẳng ngờ, lòng chân thành tiếp nhận, phát nguyện cầu sanh, hạng người ấy sẽ được chư Phật hộ niệm<a href="https://www.niemphat.net/Luan/yeugiaigiangky/yeugiai9.htm#_ftn4" name="_ftnref4" title=""><span style="font-size: 14pt;">[4]</span></a>, <i>“đều chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”</i>, Đây là lợi ích do chính mình chứng được. Nếu chúng ta nghĩ mình phiền não nặng nề, sợ rằng chẳng thể chứng được trọn vẹn ba món Bất Thoái bèn là nghi ngờ chính mình, tự đánh mất lợi lành. Hãy nên biết: Từng chữ, từng câu trong kinh này đều nói hết sức khẳng định, không có lời nào mập mờ nước đôi! Cuối cùng, đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: Các ông nhất định phải tin nhận lời ta và lời hết thảy chư Phật đã nói.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">(Giải) Thử kinh độc thuyên vô thượng tâm yếu, chư Phật danh tự, tịnh thuyên vô thượng viên mãn cứu cánh vạn đức. Cố văn giả giai vị chư Phật hộ niệm. Hựu, văn kinh, thọ trì, tức chấp trì danh hiệu, A Di danh hiệu chư Phật sở hộ niệm cố.<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">解</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">此經獨詮無上心要。諸佛名字。並詮無上圓滿究竟萬德。故聞者皆為諸佛護念。又。聞經受持。即執持名號。阿彌名號。諸佛所護念故。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">(<b>Giải</b>: Một mình kinh này giảng về tâm yếu vô thượng, danh hiệu của chư Phật và giảng giải vạn đức rốt ráo viên mãn vô thượng. Vì thế, người nghe đều được chư Phật hộ niệm. Lại nữa, nghe kinh, thọ trì, tức là chấp trì danh hiệu, vì danh hiệu A Di Đà được chư Phật hộ niệm).<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">“<i>Độc</i>” là duy nhất, [câu “<i>thử kinh độc thuyên vô thượng tâm yếu</i>” có nghĩa là] chỉ có mình kinh này giảng rõ vô thượng tâm yếu cho chúng ta. A Di Đà Phật là danh hiệu của hết thảy chư Phật, là vạn đức đã viên mãn rốt ráo. “<i>Vô thượng tâm yếu</i>” chính là cái tâm tánh niệm Phật. Vì thế, niệm một vị A Di Đà Phật chính là niệm hết thảy chư Phật Như Lai, một chính là hết thảy. Chư Phật nhân viên quả mãn, trí huệ đạt đến rốt ráo. Ba đức Pháp Thân, Bát Nhã, Giải Thoát đều đạt đến viên mãn; niệm một câu danh hiệu sẽ khởi lên tác dụng cảm ứng đạo giao với ba đức viên mãn. Chúng sanh tuy chưa chứng đắc, nhưng tự tánh đã sẵn có, ắt sẽ tương ứng tam đức do chư Phật đã chứng nơi quả vị Như Lai. Do vậy, trong phần trước đã có nói: <i>“Niệm danh hiệu Phật là đem công đức của A Di Đà Phật biến thành công đức của chính mình”.</i><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">(Giải) Vấn: Đản văn chư Phật danh, nhi vị trì kinh, diệc đắc hộ niệm bất thoái da?<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">Đáp: Thử nghĩa hữu cục, hữu thông. Chiêm Sát vị: “Tạp loạn cấu tâm, tuy tụng ngã danh, nhi bất vi văn, dĩ bất năng sanh quyết định tín giải, đản hoạch thế gian thiện báo, bất đắc quảng đại thâm diệu lợi ích. Nhược đáo Nhất Hạnh tam-muội, tắc thành quảng đại vi diệu hạnh tâm, danh đắc Tương Tự Vô Sanh Pháp Nhẫn, nãi vi đắc văn thập phương Phật danh”. Thử diệc ưng nhĩ. Cố tu văn dĩ chấp trì, chí nhất tâm bất loạn, phương vi văn chư Phật danh, mông chư Phật hộ niệm. Thử cục nghĩa dã. Thông nghĩa giả, chư Phật từ bi bất khả tư nghị, danh hiệu công đức diệc bất khả tư nghị. Cố nhất văn Phật danh, bất luận hữu tâm vô tâm, nhược tín, nhược phủ, giai thành duyên chủng. Huống Phật độ chúng sanh, bất giản oán thân, hằng vô bì quyện. Cẩu văn Phật danh, Phật tất hộ niệm, hựu hà nghi yên? Nhiên cứ Kim Cang Tam Luận, căn thục Bồ Tát, vi Phật hộ niệm, vị tại Biệt Địa, Viên Trụ. Cái ước tự lực, tất nhập Đồng Sanh Tánh, nãi khả hộ niệm. Kim trượng tha lực, cố</span></i></b><span style="font-size: 14pt;"> <b><i>Tương Tự Vị, tức mông hộ niệm. Nãi chí Tương Tự Vị dĩ hoàn, diệc giai hữu thông hộ niệm chi nghĩa. Hạ chí nhất văn Phật danh, ư đồng thể pháp tánh, hữu tư phát lực, diệc đắc viễn nhân, chung bất thoái dã. A Nậu Đa La, thử vân Vô Thượng, Tam Miệu Tam Bồ Đề, thử vân Chánh Đẳng Chánh Giác, tức Đại Thừa quả giác dã. Viên tam Bất Thoái, nãi “nhất sanh thành Phật” dị danh. Cố khuyến Thân Tử đẳng giai đương tín thọ. Văn danh công đức như thử, Thích Ca cập thập phương chư Phật đồng sở tuyên thuyết, khả bất tín hồ? Sơ khuyến tín lưu thông cánh.<o:p></o:p></i></b></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">解</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">問。但聞諸佛名。而未持經。亦得護念不退耶。答。此義有局有通。占察謂。雜亂垢心。雖誦我名。而不為聞。以不能生決定信解。但獲世間善報。不得廣大深妙利益。若到一行三昧。則成廣大微妙行心。名得相似無生法忍。乃為得聞十方佛名。此亦應爾。故須聞已執持。至一心不亂。方為聞諸佛名。蒙諸佛護念。此局義也。通義者。諸佛慈悲。不可思議。名號功德。亦不可思議。故一聞佛名。不論有心無心。若信若否。皆成緣種。況佛度眾生。不簡怨親。恆無疲倦。苟聞佛名。佛必護念。又何疑焉。然據金剛三論。根熟菩薩。為佛護念。位在別地圓住。蓋約自力。必入同生性。乃可護念。今仗他力。故相似位。即蒙護念。乃至相似位以還。亦皆有通護念之義。下至一聞佛名。於同體法性。有資發力。亦得遠因。終不退也。阿耨多羅。此云無上。三藐三菩提。此云正等正覺。即大乘果覺也。圓三不退。乃一生成佛異名。故勸身子等。皆當信受。聞名功德如此。釋迦及十方諸佛。同所宣說。可不信乎。初勸信流通竟。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">(<b>Giải</b>: Hỏi: Chỉ nghe danh hiệu chư Phật, nhưng chưa trì kinh thì cũng được hộ niệm bất thoái ư?<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">Đáp: Điều này có nghĩa hạn cuộc và nghĩa phổ biến. Kinh Chiêm Sát dạy: “Tâm nhơ tạp loạn, tuy tụng niệm danh hiệu ta, vẫn chẳng thể coi là ‘nghe’, vì chẳng thể sanh lòng tin hiểu quyết định, chỉ đạt được quả báo tốt lành trong thế gian, chẳng đạt được lợi ích sâu mầu rộng lớn. Nếu đạt được Nhất Hạnh tam-muội, sẽ thành cái tâm tu hành rộng lớn vi diệu,</span></i><span style="font-size: 14pt;"> <i>gọi là đạt được Tương Tự Vô Sanh Pháp Nhẫn, bèn được coi là đã nghe danh hiệu của mười phương Phật”. Ở đây, cũng nên hiểu giống như vậy. Vì thế, nghe rồi, phải nên chấp trì đến mức nhất tâm bất loạn thì mới là “đã nghe danh hiệu của chư Phật”, được chư Phật hộ niệm. Đấy là nghĩa hạn cuộc.<o:p></o:p></i></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">Nghĩa phổ biến là chư Phật từ bi chẳng thể nghĩ bàn, công đức của danh hiệu cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì thế, vừa nghe danh hiệu Phật, bất luận là hữu tâm hay vô tâm, dù tin hay không, đều tạo thành cái duyên và hạt giống [thành Phật trong A Lại Da Thức]. Huống chi, Phật độ chúng sanh chẳng phân biệt là kẻ oán hay người thân, luôn luôn không mệt mỏi. Nếu nghe danh hiệu Phật, ắt Phật sẽ hộ niệm, há còn đáng nghi gì nữa ư? Nhưng theo Kim Cang Tam Luận, Bồ Tát căn cơ chín muồi, được Phật hộ niệm thì địa vị thuộc Sơ Địa trong Biệt Giáo hoặc Sơ Trụ trong Viên Giáo. Bởi lẽ, luận theo phía tự lực thì phải thuộc địa vị Đồng Sanh Tánh mới được [chư Phật] hộ niệm. Nay cậy vào tha lực, nên thuộc vào địa vị Tương Tự liền được Phật hộ niệm, cho đến từ địa vị Tương Tự trở xuống cũng đều có ý nghĩa “cùng được chư Phật hộ niệm”. Thậm chí vừa nghe danh hiệu Phật thì đã có sức giúp cho đồng thể pháp tánh được phát khởi, cũng trở thành cái nhân xa, trọn chẳng bị lui sụt.<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">A Nậu Đa La cõi này dịch là Vô Thượng, Tam Miệu Tam Bồ Đề cõi này dịch là Chánh Đẳng Chánh Giác, tức là quả giác Đại Thừa vậy. “Trọn vẹn ba thứ Bất Thoái” chính là tên khác của “thành Phật ngay trong một đời”. Vì thế, đức Phật khuyên các vị như Thân Tử (Xá Lợi Phất) đều nên tin nhận. Phật Thích Ca và mười phương chư Phật cùng tuyên nói công đức nghe danh hiệu như thế, há chẳng đáng tin ư? Tiểu đoạn thứ nhất [trong phần Lưu Thông] là Khuyến Tín Lưu Thông đã xong).<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><i><span style="font-size: 14pt;"> </span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Đại sư trả lời: Nghĩa này có nghĩa hạn cuộc (cục nghĩa) và nghĩa phổ<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;">cập (thông nghĩa). “<i>Cục</i>” là nghĩa hẹp, “<i>thông</i>” là nghĩa rộng. Kinh Địa Tạng gồm ba loại:<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">1) Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh được phổ biến rộng rãi nhất.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">2) Địa Tạng Bồ Tát Thập Luân Kinh.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">3) Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh (gọi tắt là kinh Chiêm Sát).<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;">Trong kinh Chiêm Sát, có một đoạn nói: <i>“Tạp loạn cấu tâm, tuy tụng ngã danh, nhi bất vi văn</i>” (Tâm nhơ tạp loạn thì tuy tụng danh hiệu ta vẫn chẳng thể coi là đã nghe). Câu này ý nói tâm tạp loạn niệm Phật không có công đức. Tuy không có công đức, vẫn đạt được quả báo tốt lành trong thế gian, chứ không đạt được “<i>lợi ích sâu mầu rộng lớn</i>”. [Lợi ích sâu mầu rộng lớn] là đắc Định, khai ngộ, liễu sanh tử, thoát tam giới.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;">“<i>Nhược đáo Nhất Hạnh tam-muội, tắc thành quảng đại vi diệu hạnh tâm, danh đắc Tương Tự Vô Sanh Pháp Nhẫn, nãi vi đắc văn thập phương Phật danh</i>” (Nếu đạt được Nhất Hạnh tam-muội sẽ thành cái tâm tu hành rộng lớn vi diệu, gọi là đạt được Tương Tự Vô Sanh Pháp Nhẫn, bèn được nghe danh hiệu của mười phương Phật). Trong Lục Tổ Đàn Kinh, Huệ Năng đại sư coi trọng Nhất Hạnh tam-muội. Trong Tịnh Độ Tông có Niệm Phật tam-muội. Thật ra, Niệm Phật tam-muội chính là Nhất Hạnh tam-muội, còn gọi là Nhất Tướng tam-muội. Trong kinh Lăng Nghiêm, Đại Thế Chí Bồ Tát khai thị một tiêu chuẩn: “<i>Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm liên tục</i>”, đấy là Nhất Hạnh tam-muội, còn kinh này (kinh A Di Đà) gọi là “nhất tâm bất loạn”. Nhất tâm bất loạn là Nhất Hạnh tam-muội, mà cũng là Niệm Phật tam-muội. Nhất tâm bất loạn có công phu sâu hay cạn sai khác. Niệm đến mức đoạn hết Kiến Tư phiền não thì gọi là Sự nhất tâm bất loạn. Niệm đến mức phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân thì gọi là Lý nhất tâm bất loạn. Cảnh giới được nói tới trong đoạn này chính là vừa mới đạt đến Lý nhất tâm bất loạn, thì gọi là “<i>quảng đại vi diệu hạnh tâm</i>”, đắc Tương Tự Vô Sanh Pháp Nhẫn. Thật sự đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn thì như trong kinh Nhân Vương đã giảng rất rõ ràng, đấy là Thất Địa Bồ Tát. Trước khi đạt đến địa vị Thất Địa Bồ Tát đều gọi là Tương Tự Vô Sanh Pháp Nhẫn. Thất Địa là Hạ Phẩm, Bát Địa là Trung Phẩm, Cửu Địa là Thượng Phẩm Vô Sanh Pháp Nhẫn.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Lại lên tới Thập Địa thì gọi là Hạ Phẩm Tịch Diệt Nhẫn, Đẳng Giác Bồ Tát là Trung Phẩm Tịch Diệt Nhẫn, Như Lai quả địa gọi là Thượng Phẩm Tịch Diệt Nhẫn. Nếu cũng hiểu pháp môn Niệm Phật theo cùng một lý này, thì đấy là nghĩa hạn cuộc.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Đối với nghĩa phổ cập thì do chư Phật từ bi chẳng thể nghĩ bàn, công đức của danh hiệu cũng chẳng thể nghĩ bàn, dùng một câu A Di Đà Phật có thể khiến cho phàm phu nghiệp chướng cực nặng thành Phật viên mãn ngay trong một đời. Vừa nghe danh hiệu Phật, bất luận hữu tâm hay vô tâm, dù tin hay chẳng tin, chủng tử thành Phật đã được gieo vào [thức điền]. Tâm Phật thanh tịnh, bình đẳng, không phân biệt, chấp trước, quan tâm trọn khắp chúng sanh, chỉ luận định duyên đã chín muồi hay chưa, chẳng cần biết là kẻ oán hay người thân. Người tạo tội cực ác như vua A Xà Thế, tạo Ngũ Nghịch, Thập Ác, lúc lâm chung sám hối, nhất tâm niệm Phật cũng được vãng sanh. Trong kinh, đức Phật tuyên nói: Vua A Xà Thế sanh về Tây Phương, phẩm vị là Thượng Phẩm Trung Sanh, thật chẳng thể nghĩ bàn! Có hai loại vãng sanh:<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">- Một là lúc bình thường đoạn ác tu thiện, chuyên tâm niệm Phật.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">- Hai là kẻ nghiệp nặng, lúc lâm chung chân tâm sám hối, cũng được vãng sanh.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Bất luận là ai dù chỉ trì danh chứ chẳng tụng kinh cũng đều được Phật hộ niệm, không cần phải hoài nghi!<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Theo như cách Phật đã giảng trong các kinh Đại Thừa thì thông thường phải là bậc Sơ Địa của Biệt Giáo trở lên hoặc là từ Sơ Trụ trong Viên Giáo trở lên, những vị ấy đều là bậc Pháp Thân đại sĩ thì mới được Phật hộ niệm. Vì họ đã phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, tâm thanh tịnh, bình đẳng, hết thảy chướng ngại đều không có, từ đấy trở đi, tâm tâm lưu nhập biển Tát Bà Nhã (Nhất Thiết Trí). Nhưng trong tông này (Tịnh Độ Tông) thì lại khác, nhờ được bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia trì, mười phương chư Phật cũng gia trì. Nếu chẳng tu pháp môn này sẽ không được A Di Đà Phật gia trì, những vị Phật khác cũng chẳng quan tâm tới. Sau khi đọc cuốn Yếu Giải, [mới thấy] một câu Phật hiệu chẳng thể không niệm. [Hễ niệm Phật], dù chưa đạt tới địa vị Tương Tự, vẫn nhất định được chư Phật hộ niệm. Một câu A Di Đà Phật này là chủng tử thành Phật, trong một đời được nghe một câu A Di Đà Phật, nhưng đời này chưa thể vãng sanh thì đời sau hay đời sau nữa, hoặc đời khác nữa, được mang thân người, lại gặp pháp môn này, chủng tử trong A Lại Da Thức sẽ dấy lên hiện hành, có thể tin, có thể nguyện, có thể hành, người ấy cũng sẽ nhất định vãng sanh.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">“<i>A Nậu Đa La, cõi này dịch là Vô Thượng, Tam Miệu Tam Bồ Đề,<o:p></o:p></i></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><i><span style="font-size: 14pt;">cõi này dịch là Chánh Đẳng Chánh Giác</span></i><span style="font-size: 14pt;">”, nói theo cách bây giờ là “trí huệ viên mãn rốt ráo”. Chứng trọn vẹn ba thứ Bất Thoái, chính là tên gọi khác “thành Phật ngay trong một đời”. Kinh này do đức Thế Tôn và mười phương chư Phật buốt lòng rát miệng khuyên chúng ta hãy đều nên tin nhận, há chúng ta chẳng tin tưởng ư?<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><b><span style="font-size: 14pt;">4.3.1.2. Khuyến nguyện lưu thông<o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><b><span style="font-size: 14pt;"> </span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> <b><i>(Kinh) Xá Lợi Phất! Nhược hữu nhân dĩ phát nguyện, kim phát nguyện, đương phát nguyện, dục sanh A Di Đà Phật quốc giả, thị chư nhân đẳng, giai đắc bất thoái chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Ư bỉ quốc độ, nhược dĩ sanh, nhược kim sanh, nhược đương sanh.</i></b> <b><i>Thị cố Xá Lợi Phất! Chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, nhược hữu tín giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ.<o:p></o:p></i></b></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><b><i><span style="font-size: 14pt;"> (Giải) Dĩ nguyện dĩ sanh, kim nguyện kim sanh, đương nguyện đương sanh, chánh hiển y tín sở phát chi nguyện vô hư dã. Phi tín, bất năng phát nguyện. Phi nguyện, tín diệc bất sanh. Cố vân: “Nhược hữu tín giả, ưng đương phát nguyện”. Hựu, nguyện giả, tín chi khoán, hạnh chi xu, vưu vi yếu vụ. Cử nguyện, tắc tín hạnh tại kỳ trung. Sở dĩ ân cần tam khuyến dã. Phục thứ, nguyện sanh bỉ quốc, tắc hân yếm nhị môn, yếm ly Sa Bà, dữ y Khổ Tập nhị đế, sở phát nhị chủng hoằng thệ tương ứng. Hân cầu Cực Lạc, dữ y Đạo Diệt nhị đế, sở phát nhị chủng hoằng thệ tương ứng. Cố đắc bất thoái chuyển ư đại Bồ Đề đạo.<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">經</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">舍利弗。若有人。已發願。今發願。當發願。欲生阿彌陀佛國者。是諸人等。皆得不退轉於阿耨多羅三藐三菩提。於彼國土。若已生。若今生。若當生。是故舍利弗。諸善男子。善女人。若有信者。應當發願。生彼國土。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><b><span style="font-size: 16pt;"> (</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">解</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">已願已生。今願今生。當願當生。正顯依信所發之願無虛也。非信。不能發願。非願。信亦不生。故云。若有信者。應當發願。又。願者。信之券。行之樞。尤為要務。舉願。則信行在其中。所以殷勤三勸也。復次願生彼國。即欣厭二門。厭離娑婆。與依苦集二諦。所發二種弘誓相應。欣求極樂。與依道滅二諦。所發二種弘誓相應。故得不退轉於大菩提道。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> <i>(<b>Chánh kinh</b>: Này Xá Lợi Phất! Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện, muốn sanh về cõi Phật A Di Đà thì những người ấy đều đắc bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đối với cõi ấy hoặc đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh. Vì thế Xá Lợi Phất! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân nếu có lòng tin, hãy nên phát nguyện sanh về cõi ấy.<o:p></o:p></i></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><i><span style="font-size: 14pt;"> <b>Giải</b>: Đã nguyện đã sanh, nay nguyện nay sanh, sẽ nguyện sẽ sanh, nhằm tỏ rõ do tin tưởng mà phát ra lời nguyện thì lời nguyện ấy chẳng hư huyễn. Không tin sẽ chẳng thể phát nguyện. Không có nguyện, lòng tin cũng chẳng thể sanh. Vì thế nói: “Nếu có lòng tin, hãy nên phát nguyện”. Hơn nữa, nguyện là bằng khoán của lòng tin, là mấu chốt của</span></i><span style="font-size: 14pt;"> <i>hạnh, có vai trò quan trọng nhất. Nêu ra nguyện thì tín và hạnh đều nằm trong ấy. Do vậy, Phật ân cần ba lượt khuyên nhủ. Lại nữa, nguyện sanh về cõi ấy chính là hai môn Ưa Thích và Chán Lìa. Chán lìa Sa Bà, tương ứng với hai thứ hoằng thệ do nương theo Khổ Đế và Tập Đế mà phát ra. Ưa cầu Cực Lạc, tương ứng với hai thứ hoằng thệ do nương theo Đạo Đế và Diệt Đế mà phát ra. Vì thế, đạt được chẳng thoái chuyển nơi đại Bồ Đề đạo</i>).<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> Đoạn này thuộc phần “<i>khuyến nguyện lưu thông</i>”. Đại sư nói, người đã phát nguyện đã vãng sanh, người hiện đang phát nguyện thì trong một đời này nhất định vãng sanh, phát nguyện trong tương lai thì tương lai nhất định vãng sanh. Từ ngữ “<i>đương phát nguyện giả</i>” chỉ cho chúng ta trong hiện tại, cũng giống như người trong quá khứ, nhằm chỉ rõ lời phát nguyện xuất phát từ lòng tin không hư dối, tin tưởng sâu xa, không hoài nghi tí nào. Không có lòng tin sẽ chẳng thể phát nguyện. Thông thường có chân tín, chánh tín và mê tín. Có không ít pháp sư đại đức khuyên người khác niệm Phật, nhưng chính họ không niệm, họ nghĩ còn có những pháp môn khác cao hơn. Đấy gọi là “chánh tín”<a href="https://www.niemphat.net/Luan/yeugiaigiangky/yeugiai9.htm#_ftn5" name="_ftnref5" title=""><span style="font-size: 14pt;">[5]</span></a>.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">“<i>Nguyện giả, tín chi khoán</i>” (Nguyện là bằng khoán của tín). “<i>Khoán</i>” (</span><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 14pt;">券</span><span style="font-size: 14pt;">) là bằng chứng, Tín cũng là mấu chốt của Hạnh. Trong ba món tư lương, Tín đặc biệt quan trọng. Nếu ai thật sự chịu phát nguyện vãng sanh, người ấy tất nhiên có lòng tin rất sâu, ắt sẽ chịu thật thà niệm Phật, điều này thuộc về Hạnh. Khuyên nên tin tưởng, khuyên nên hành trì, mỗi phần đức Phật chỉ khuyên một lần, nhưng lại khuyên “<i>hãy phát nguyện</i>” đến ba lần. Đủ thấy, đức Phật hết sức coi trọng nguyện. Lần thứ nhất là trong đoạn thứ hai của phần Chánh Tông, Phật nói xong sự trang nghiêm nơi y báo và chánh báo, chúng sanh vãng sanh về đó đều đắc Bất Thoái, đức Phật khuyên “<i>chúng sanh văn giả, ưng đương phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc</i>” (chúng sanh nghe nói, đều nên phát nguyện, nguyện sanh về cõi ấy). Lần thứ hai là trong đoạn cuối của phần Chánh Tông: “<i>Thị nhân chung thời, tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ, ngã kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn. Nhược</i> <i>hữu chúng sanh văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ</i>” (Người ấy lúc lâm chung, tâm chẳng điên đảo, liền được sanh về cõi nước Cực Lạc của A Di Đà Phật. Ta thấy điều lợi này, nên nói lời như sau: Nếu có chúng sanh nghe nói như vậy, hãy nên phát nguyện, nguyện sanh về cõi ấy). Còn trong đoạn này là lần khuyên thứ ba, lại nói: “<i>Nhược hữu tín giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ</i>” (Nếu ai có lòng tin, hãy nên phát nguyện sanh về cõi ấy). Chẳng ngại phiền rộn, chẳng sợ trùng lặp, đức Bổn Sư lòng từ bi khẩn thiết, thật sự mong chúng ta ngay trong một đời sẽ vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi viên thành Phật đạo, thỏa mãn hoằng nguyện độ sanh. Tâm cảm ơn đội đức đối với đức Thế Tôn nẩy sanh tràn trề.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> Đại sư lại dựa trên Tứ Hoằng Thệ Nguyện để giải thích, nguyện sanh cõi ấy chính là viên mãn Tứ Hoằng Thệ Nguyện. Nguyện vãng sanh nhất định lìa khỏi Sa Bà. “<i>Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn” </i>thuộc về Khổ Đế và Tập Đế.<i> “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành</i>” thuộc về Diệt Đế và Đạo Đế. Tứ Hoằng Thệ Nguyện hễ phát tâm thì đại Bồ Đề tâm liền viên mãn. Đại sư nói lời này khiến chúng ta giật nẩy mình, vì từ trước đến giờ chưa có ai nói cả! Ở đây, Ngài đã nêu ra căn cứ, Tứ Hoằng Thệ Nguyện chính là vô thượng Bồ Đề tâm.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> <b><i>(Giải) Vấn: Kim phát nguyện, đản khả vân đương sanh, hà danh kim sanh?<o:p></o:p></i></b></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><b><i><span style="font-size: 14pt;"> Đáp: Thử diệc nhị nghĩa. Nhất ước nhất kỳ danh “kim”, hiện sanh phát nguyện trì danh, lâm chung định sanh Tịnh Độ. Nhị ước sát-na danh “kim”, nhất niệm tương ứng, nhất niệm sanh. Niệm niệm tương ứng, niệm niệm sanh. Diệu nhân, diệu quả, bất ly nhất tâm. Như xứng lưỡng đầu, đê ngang thời đẳng, hà sĩ Sa Bà báo tận, phương dục trân trì? Chỉ kim tín nguyện trì danh, liên ngạc quang vinh, kim đài ảnh hiện, tiện phi Sa Bà giới nội nhân hỹ. Cực viên, cực đốn, nan nghị, nan tư. Duy hữu đại trí, phương năng đế tín.<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">解</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">問。今發願但可云當生。何名今生。答。此亦二義。一約一期名今。現生發願持名。臨終定生淨土。二約剎那名今。一念相應。一念生。念念相應。念念生。妙因妙果。不離一心。如秤兩頭。低昂時等。何俟娑婆報盡。方育珍池。只今信願持名。蓮萼光榮。金臺影現。便非娑婆界內人矣。極圓極頓。難議難思。唯有大智。方能諦信。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"> <o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">(<b>Giải</b>: Hỏi: Nay phát nguyện thì chỉ có thể nói là “sẽ sanh”, sao lại bảo là “nay sanh?”<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">Đáp: Điều này cũng có hai nghĩa:<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">- Một là dựa trên cùng một kỳ hạn mà bảo là “nay”. Đời này phát nguyện trì danh thì lâm chung nhất định sanh về Tịnh Độ.<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">- Hai là dựa theo sát-na mà gọi là “nay”. Một niệm tương ứng thì sanh vào cõi kia trong một niệm ấy, niệm niệm tương ứng thì trong từng niệm đều sanh.<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">Diệu nhân, diệu quả, chẳng lìa nhất tâm. Như hai đầu cái cân, hễ đầu này chúc xuống thì đầu kia nâng lên cùng một lúc, cần gì phải đợi đến khi hết báo thân nơi Sa Bà mới sanh trong ao báu. Chỉ cần nay tín nguyện trì danh thì [nơi Cực Lạc] hoa sen rạng ngời, đài vàng hiện bóng, tức là đã không còn là người trong cõi Sa Bà nữa! Cực viên, cực đốn, khó nghĩ, khó suy, chỉ có bậc đại trí mới có thể tin</span></i><span style="font-size: 14pt;"> <i>tưởng chắc thật mà thôi!)<o:p></o:p></i></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><i><span style="font-size: 14pt;"> </span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Có người hỏi: “Nay phát nguyện thì chỉ có thể nói là sẽ sanh, vì sao lại nói là nay sanh?” Chữ “<i>kim</i>” (nay) chỉ lúc đức Thế Tôn đang thuyết pháp. “<i>Đương phát nguyện</i>” là nói về những kẻ sau lúc ấy, như chúng ta ở trong thời đại hiện thời thuộc vào những người “sẽ phát nguyện”. Một đời tu học pháp môn này, lâm chung quyết định sanh về Tịnh Độ; vì thế nói là “<i>kim sanh</i>” (đời này). Nghĩa thứ hai là nói trong khoảng sát-na. Hễ tương ứng trong một niệm thì sanh về Tịnh Độ ngay trong niệm ấy. Người phát nguyện ắt phải trọn đủ ba món tư lương, Tín phải là chân tín, Nguyện phải khẩn thiết, thấy thấu suốt hết thảy mọi thứ trong thế gian, trong tâm triệt để buông xuống, chứ không phải chỉ buông xuống trên mặt Sự. Nếu chỉ trên mặt Sự thì chẳng đáng để bàn tới. Trong tâm phải nên không vướng mắc, giống như Thiện Tài tham học năm mươi ba lần, nhưng luôn là người tâm địa thanh tịnh, chẳng vướng mắc mảy may. Biểu hiện trên mặt Sự, các ngành, các nghề, nam, nữ, già, trẻ đều không trở ngại. Trong một niệm phải có đủ Tín, Nguyện, Hạnh cũng như tương ứng với Giới, Định, Huệ, và Giác, Chánh, Tịnh. Một niệm như thế, thân tuy chưa sanh sang đó, mà trong ao bảy báu nơi Tây Phương Cực Lạc thế giới đã trổ một đóa hoa sen có ghi rõ tên hành giả. Đấy là do chính mình cảm ứng biến hiện ra, chứ không phải do Phật biến hiện. Niệm nào cũng tương ứng thì hoa sen báu càng ngày càng lớn, ánh sáng, màu sắc ngày càng tươi đẹp. Diệu nhân, diệu quả, chẳng lìa nhất tâm. Lâm chung liền thác sanh trong hoa sen. Nhân quả đồng thời chẳng thể nghĩ bàn. Các pháp môn khác là “nhân trước, quả sau”, còn hoa sen là nhân quả đồng thời, cần gì phải đợi tới khi cái thân nghiệp báo hết tuổi thọ rồi mới có thể sanh trên đài vàng trong ao sen bảy báu. Chỉ cần hiện tại tín nguyện trì danh, hoa sen trong cõi Tây Phương liền rạng rỡ xinh tươi, chẳng còn là người trong thế giới Sa Bà nữa!<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Trong tác phẩm của pháp sư Viên Anh có nhắc tới hai người:<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">1) Một là pháp sư Khả Cứu đời Tống. Sư thường niệm kinh Pháp Hoa cầu sanh Tịnh Độ. Trong chương Tam Bối Vãng Sanh của kinh Vô Lượng Thọ, đoạn thứ tư có nói: Hễ ai tu học hết thảy pháp Đại Thừa, hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ thì A Di Đà Phật cũng đến tiếp dẫn giống hệt [như người chuyên tu Tịnh Độ]. Đủ thấy pháp môn này bao dung hết sức rộng lớn. Pháp sư Khả Cứu ngồi vãng sanh, mất đã ba ngày, sống lại, bảo các đồng tu: “Tôi đã đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, trông thấy tình hình hoàn toàn giống như kinh đã dạy”. Ngài lại nói những ai tu Tịnh Độ trong cõi đời, hoa sen trong ao bảy báu ở Tây Phương đều có ghi tên. Người Thượng Phẩm vãng sanh là lão hòa thượng của Quảng Giáo Viện tại Thần Châu. Khi ấy, lão hòa thượng còn chưa vãng sanh. Ngoài ra, còn có Tôn Thập Nhị Lang ở Minh Châu và chính sư Khả Cứu đều là đài vàng. Kém hơn là đài bạc, người chứng được đài bạc là Từ đạo cô. Pháp sư Khả Cứu thuật tình hình đã thấy cho mọi người nghe rồi lại vãng sanh. Sau này, Tôn Thập Nhị Lang lâm chung, nhạc trời vang rền hư không; khi Từ đạo cô lâm chung, có mùi hương lạ ngập thất<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;">không tan.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">2) Người kia là pháp sư Hoài Ngọc, khi lâm chung, thấy A Di Đà Phật cầm đài bạc đến đón, Sư nghĩ ta bình sinh công phu rất đắc lực, cớ sao chỉ được đài bạc, tợ hồ chẳng cam lòng. Ý niệm vừa khởi, chẳng thấy A Di Đà Phật nữa. Sư lại dốc hết tánh mạng niệm Phật bảy ngày bảy đêm không ngớt, A Di Đà Phật lại hiện, cầm đài vàng tiếp dẫn.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Trong thế gian, người tu pháp môn Tịnh Độ chân tâm niệm Phật cầu vãng sanh, hoa sen của người ấy bèn sáng ngời, rực rỡ chóa mắt. Nếu giải đãi, biếng nhác, hoa liền khô héo. Đổi dạ chuyển sang tu pháp môn khác, hoa liền chết khô. Hết thảy sự vật trong Tây Phương đều chẳng sanh diệt, chỉ có hoa sen trong ao bảy báu là có sanh, có diệt. Sự tươi, khô, sanh, diệt ấy do hành nhân cảm thành, chứ không liên quan gì tới A Di Đà Phật.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;">Khi niệm Phật, tâm tánh năng niệm chẳng thể nghĩ bàn, nhưng phải dùng chân tâm, đừng dùng vọng tâm. Niệm Phật bằng chân tâm thì xử thế đãi người tiếp vật cũng phải dùng chân tâm. Niệm niệm cầu sanh về Tịnh Độ, khi còn sống trên đời thì hết thảy thuận theo tự nhiên, chớ nên cưỡng cầu. Một câu Phật hiệu đầy đủ viên mãn Tam Học, Tam Huệ, và ba món tư lương, mà cũng đầy đủ viên mãn vô lượng hạnh môn, nhất tâm chấp trì sẽ có thể viên siêu, viên đốn. Những bộ kinh lớn trong Viên Giáo như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa vẫn chưa thể nói là “<i>cực</i>” (tột bậc); cực viên cực đốn chỉ có một pháp môn này. Thiền là Đốn, nhưng đem so với kinh này, chẳng thể thành tựu trong bảy ngày. Mật Tông nói “<i>tức thân thành Phật</i>” (thành Phật ngay trong thân này), nhưng Ấn Quang đại sư nói rất hay: “<i>Tức thân thành Phật trong Mật Tông chẳng qua chỉ là liễu sanh tử, thoát tam giới mà thôi</i>!” Loại công phu ấy thì A La Hán, Bích Chi Phật mới có đủ tư cách, [“tức thân thành Phật” của Mật Tông] chỉ là quả vị Phật trong Tạng Giáo, chẳng thể bằng quả vị Phật trong Biệt Giáo và Viên Giáo. Hết thảy tông, giáo, pháp môn bày ra trước mặt quý vị, quý vị chẳng chao đảo, tín tâm mới có thể kiên cố. Thông minh thế gian là Thế Trí Biện Thông, trí huệ thật sự là đối với hết thảy pháp môn chẳng nghi hoặc một tí ti nào. Cổ nhân thường nói: “<i>Duy thượng trí dữ hạ ngu bất di dã</i>” (Chỉ có bậc thượng trí và kẻ hạ ngu mới chẳng thay đổi chí hướng), thật chẳng biết hạ ngu là thượng trí. Tín tâm chẳng đủ thì có thể vun bồi. Đối với pháp môn này mà có thể sanh lòng hoan hỷ, chứng tỏ người ấy trong đời quá khứ quả thật có duyên với Phật pháp. Đọc nhiều kinh điển Đại Thừa có thể tăng mạnh tín tâm, đọc Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Vãng Sanh Truyện Ký nhiều lượt có thể thúc đẩy ý nguyện cầu vãng sanh.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><b><span style="font-size: 14pt;">4.3.1.3. Khuyến hạnh lưu thông<o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><b><span style="font-size: 14pt;"> </span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> <b><i>(Kinh) Xá Lợi Phất! Như ngã kim giả, xưng tán chư Phật bất khả tư nghị công đức, bỉ chư Phật đẳng diệc xưng tán ngã bất khả tư nghị công đức, nhi tác thị ngôn: “Thích Ca Mâu Ni Phật năng vi thậm nan hy hữu chi sự, năng ư Sa Bà quốc độ, ngũ trược ác thế, kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược trung, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vị chư chúng sanh, thuyết thị nhất thiết thế gian nan tín chi pháp”.<o:p></o:p></i></b></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">經</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">舍利弗。如我今者。稱讚諸佛不可思議功德。彼諸佛等。亦稱讚我不可思議功德。而作是言。釋迦牟尼佛。能為甚難希有之事。能於娑婆國土。五濁惡世。劫濁。見濁。煩惱濁。眾生濁。命濁中。得阿耨多羅三藐三菩提。為諸眾生。說是一切世間難信之法。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> <i>(<b>Chánh kinh</b>: Này Xá Lợi Phất! Như ta nay khen ngợi chư Phật có công đức chẳng thể nghĩ bàn, các vị Phật ấy cũng khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của ta, mà nói như thế này: “Thích Ca Mâu Ni Phật làm được chuyện rất khó, là có thể ở trong đời ác năm thứ trược là kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược, đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì các chúng sanh nói pháp mà hết thảy thế gian khó tin tưởng này).<o:p></o:p></i></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Đoạn kinh văn này là “<i>khuyến hạnh lưu thông</i>”. Chữ “<i>chư Phật</i>” trong câu trước chỉ A Di Đà Phật. “<i>Bỉ chư Phật đẳng</i>” là A Di Đà Phật và mười phương vô lượng vô biên chư Phật đều cùng tán thán Thích Ca Mâu Ni Phật ở trong đời ác ngũ trược, tức kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược, đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì các chúng sanh nói ra pháp mà hết thảy thế gian khó thể tin tưởng này. Khi Phật Thích Ca xuất thế, tuổi thọ trung bình của con người trong thế giới Sa Bà là một trăm tuổi, đang nhằm kiếp giảm, cứ mỗi một trăm năm lại giảm một tuổi. Do đức Phật xuất thế cách đây đã ba ngàn năm nên tuổi thọ trung bình của con người hiện thời là bảy mươi tuổi, đang bước vào đời ác ngũ trược. Để có thể tu hành chứng quả thành Phật ngay trong thời này, phải dùng phương pháp nào để thành Phật? Ngẫu Ích đại sư bảo Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật do niệm A Di Đà Phật mà thành Phật. Câu này nằm ngay trong đoạn kinh văn này. Phật Thích Ca đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác tức là thành Phật, thị hiện thành Phật ngay trong một đời, rồi mới đem pháp môn thành Phật ngay trong một đời truyền cho chúng ta. Đấy là “<i>vì các chúng sanh, nói ra pháp mà hết thảy thế gian khó tin tưởng</i>” này.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">(Giải) Chư Phật công đức, trí huệ, tuy giai bình đẳng, nhi thi hóa tắc hữu nan dị. Tịnh Độ thành Bồ Đề dị, trược thế nan. Vị Tịnh Độ chúng sanh thuyết pháp dị, vị trược thế chúng sanh nan. Vị trược thế chúng sanh thuyết tiệm pháp do dị, thuyết đốn pháp nan. Vị trược thế chúng sanh thuyết dư đốn pháp do dị, thuyết Tịnh Độ hoành siêu đốn pháp vưu nan. Vị trược thế chúng sanh, thuyết Tịnh Độ hoành siêu đốn tu đốn chứng diệu quán, dĩ tự bất dị. Thuyết thử vô tạ cù lao tu chứng, đản trì danh hiệu, kính đăng Bất Thoái, kỳ đặc thắng diệu, siêu xuất tư nghị, đệ nhất phương tiện, cánh vi nan trung chi nan. Cố thập phương chư Phật</span></i></b><span style="font-size: 14pt;">, <b><i>vô bất thôi ngã Thích Ca, thiên vi dũng mãnh dã.</i></b><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">解</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">諸佛功德智慧。雖皆平等。而施化則有難易。淨土成菩提易。濁世難。為淨土眾生說法易。為濁世眾生難。為濁世眾生說漸法猶易。說頓法難。為濁世眾生說餘頓法猶易。說淨土橫超頓法尤難。為濁世眾生。說淨土橫超頓修頓證妙觀。已自不易。說此無藉劬勞修證。但持名號。徑登不退。奇特勝妙。超出思議。第一方便。更為難中之難。故十方諸佛。無不推我釋迦。偏為勇猛也。</span></b><span style="font-size: 14pt;"><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">(<b>Giải</b>: Công đức và trí huệ của chư Phật tuy đều bình đẳng, nhưng thực hiện sự giáo hóa thì có dễ hay khó. Trong Tịnh Độ thành Bồ Đề dễ dàng, trong đời trược thì khó. Vì chúng sanh trong Tịnh Độ thuyết pháp thì dễ, vì chúng sanh đời trược thuyết pháp khó khăn. Vì chúng sanh đời trược thuyết pháp Tiệm (tu tấn dần dần) còn dễ, nói pháp Đốn sẽ khó. Vì chúng sanh đời trược nói các pháp Đốn khác còn dễ, nói Đốn pháp Tịnh Độ vượt ngang tam giới rất khó. Vì chúng sanh đời trước nói diệu quán Tịnh Độ đốn tu đốn chứng vượt ngang tam giới đã chẳng dễ dàng, nói pháp chẳng cần đến tu chứng nhọc nhằn, chỉ trì danh hiệu, mau chóng vượt lên Bất Thoái, kỳ lạ, đặc biệt, thù thắng, nhiệm mầu, vượt khỏi suy nghĩ, phương tiện bậc nhất này càng là điều khó nhất trong những điều khó. Vì thế, mười phương chư Phật không một vị nào chẳng suy tôn đức Thích Ca của chúng ta là bậc đặc biệt dũng mãnh).<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Mười phương tam thế hết thảy chư Phật Như Lai có cùng một tâm nguyện phổ độ chúng sanh viên thành Phật đạo. Công đức, trí huệ, năng lực của chư Phật đều bình đẳng, nhưng để thực hiện sự giáo hóa lại có dễ, khó [khác biệt]. Khó hay dễ là dựa trên đối tượng được giáo hóa mà nói, kẻ căn tánh lanh lợi sẽ dễ giáo hóa, chứ căn tánh đã chậm lụt mà nghiệp chướng lại nặng nề thì khó lắm. Đối với kẻ chướng nặng, nếu chẳng lập nhiều phương tiện chỉ dạy, bọn họ chẳng có hy vọng gì thành Phật. A Di Đà Phật hóa hiện Tịnh Độ ở Tây Phương thế giới chính là vì những kẻ như vậy mà lập bày ra. Có những kẻ hiểu lầm tưởng Tây Phương Cực Lạc thế giới để chuyên độ những hạng vô tri vô thức, làm sao có thể sánh bằng các pháp môn Đại Thừa. Thật ra, họ đã thấy sai! Thật chẳng biết Phật Di Đà lập ra pháp môn này, vượt trỗi pháp Nhất Thừa trong Đại Thừa, pháp này chính là pháp môn trực tiếp để thành Phật, những kẻ căn tánh cực độn, tội nghiệp sâu nặng, hễ tiếp nhận sẽ lập tức thành Phật. Vì sao kẻ ấy có thể tin, có thể nguyện, có thể hành? Đọc kinh Vô Lượng Thọ sẽ biết ngay, vốn là vì thiện căn, phước đức đã tích lũy trong nhiều đời nhiều kiếp của những người ấy đã chín muồi, hoàn toàn chẳng phải là ngẫu nhiên!<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Tiếp đó, luận về sự khó - dễ nơi hoàn cảnh. Tây Phương thế giới thành Phật dễ dàng, Sa Bà khó khăn. Mỗi một người sanh về Tây Phương đều được bổn nguyện của A Di Đà Phật gia trì, Phật quang phổ chiếu, trí huệ tăng trưởng, nghe pháp dễ khai ngộ. Cổ đức nói, hoàn cảnh giữa hai thế giới có nhiều điểm khác nhau:<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">1) Ở Tịnh Độ thường xuyên thấy Phật. Kẻ đới nghiệp vãng sanh, dẫu là Hạ Hạ Phẩm vãng sanh ở trong hoa sen mười hai kiếp hoa sen mới nở, thấy Phật, ngộ Vô Sanh, nhưng ở trong hoa sen cũng có thể thấy Ứng Hóa Thân của A Di Đà Phật và chư Phật, cũng như thấy Văn Thù, Phổ Hiền v.v... các vị thượng thiện nhân. “Hoa nở thấy Phật” là thấy được Báo Thân Phật, khi hoa chưa nở thì thấy Ứng Hóa Thân, [khi hoa nở thì người ấy] cũng đồng thời có năng lực đến mười phương thế giới hóa độ chúng sanh hữu duyên.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">2) Thường nghe pháp. Ba kinh [Tịnh Độ] đều nói trong Tây Phương thế giới, sáu trần đều thuyết pháp, nên [chúng sanh trong Cực Lạc] chẳng bị mê hoặc mà cũng chẳng thể thoái chuyển. Trong thế giới Sa Bà nghe pháp rất khó.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">3) Ở Tịnh Độ, các vị thượng thiện nhân tụ hội một chỗ, những thứ được tiếp xúc đều giúp cho hành nhân đạt thành tựu, không bị chướng ngại; còn thế giới Sa Bà chướng ngại trùng trùng.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">4) Tịnh Độ không có ma sự, cõi này các loài ma nhiễu loạn.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">5) Người sanh vào Tịnh Độ đều thọ vô lượng, Sa Bà đoản mạng.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">6) Tịnh Độ chứng trọn vẹn ba thứ Bất Thoái, Sa Bà tiến ít, lùi nhiều. Hễ sanh sang đời khác, phải học lại từ đầu.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">7) Tịnh Độ quyết định một đời thành Phật, Sa Bà thành Phật phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Cuối cùng đại sư lại nói: <i>“Vì chúng sanh đời trược nói các pháp Đốn khác còn dễ, nói pháp Tịnh Độ là pháp Đốn vượt khỏi tam giới theo chiều ngang rất khó”</i>. Thế nào là các pháp Đốn khác? Thiền là pháp Đốn khác, người học Thiền đông đảo. Vì chúng sanh trong đời trược nói pháp Thật Tướng Niệm Phật và Quán Tưởng Niệm Phật đã chẳng dễ dàng, may ra còn có người chịu tiếp nhận, chứ nói pháp môn bậc nhất “<i>không cần phải tu chứng nhọc nhằn, chỉ trì danh hiệu, nhanh chóng vượt lên Bất Thoái</i>” càng là sự khó nhất trong các sự khó. Vì đây là cảnh giới của chư Phật, người thường ai có thể hiểu được? Tôi thường khen ngợi chư vị đồng tu, nhân duyên thiện căn, phước đức của quý vị tốt đẹp hơn tôi. Quý vị vừa học Phật liền tin tưởng pháp môn này. Tôi học Phật cả bốn mươi năm mới tin tưởng. Tôi xuất gia lúc mới hai mươi sáu tuổi, gặp lão cư sĩ Châu Kính Trụ đã ngoài bảy mươi, cụ đối với tôi rất tốt, thường thường chăm sóc tôi. Về sau, cụ giới thiệu tôi đến Đài Trung thân cận thầy Lý học Phật. Thầy Lý là đệ tử của Ấn Quang đại sư, chuyên tu Tịnh Độ. Tôi [đến Đài Trung] nhằm mục đích học giảng kinh, cụ Lý khuyên tôi tu Tịnh Độ, tôi chẳng thể tiếp nhận, thậm chí còn ép thầy đến nỗi cụ phải thốt ra một câu: <i>“Từ xưa đến nay bao nhiêu cao tăng đại đức và những vị tại gia cư sĩ có học thức, tu tập vững vàng đều học Tịnh Độ, cứ coi như là họ bị lừa đi. Chúng ta bị lừa một lần cũng không sao!”</i> Năm Dân Quốc sáu mươi (1971), tôi giảng kinh Hoa Nghiêm ở Đài Bắc, chẳng thể không thâm nhập nghiên cứu, giảng suốt mười bảy năm, đến cuối cùng, thấy các vị Văn Thù và Phổ Hiền là những vị Phật sẽ bổ xứ trong thế giới Hoa Tạng, các Ngài đều cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chứng tỏ Tây Phương có chỗ đáng chú ý, ban cho tôi một nhân duyên phản tỉnh to lớn. Từ đấy, tôi lại chú ý thật kỹ càng: Thiện Tài đồng tử tu pháp môn Niệm Phật, Thiện Tài là học trò đắc ý của ngài Văn Thù. Ngài Văn Thù phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, truyền pháp cho Thiện Tài ắt cũng là pháp môn Niệm Phật. Về sau, Thiện Tài đi tham học, vị thầy thứ nhất (tỳ-kheo Cát Tường Vân) dạy Ngài pháp môn Niệm Phật, đến vị cuối cùng là Phổ Hiền Bồ Tát, mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc, khiến cho Thiện Tài thành Phật viên mãn ngay trong một đời. Do vậy, tôi mới quay đầu, mới lại thâm nhập nghiên cứu ba kinh Tịnh Độ. Nếu chẳng do kinh Hoa Nghiêm, tôi không có cách gì thâm nhập Tịnh Độ. Về sau, lại đọc những lời luận định của các bậc đại đức thời Tùy - Đường: <i>“Hoa Nghiêm, Pháp Hoa chẳng qua nhằm dẫn đường cho kinh Vô Lượng Thọ mà thôi</i>!” Tôi đọc câu bình luận này, cảm nhận đặc biệt sâu đậm hơn những người khác. Đúng là khó nhất trong những sự khó! Học Giáo mà có thể quy hướng Tịnh Độ thì số lượng những vị như vậy qua các đời truyền thừa chẳng nhiều. Do vậy, mười phương chư Phật không vị nào chẳng suy tôn Phật Thích Ca là đấng dũng mãnh.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">(Giải) Kiếp Trược giả, trược pháp tụ hội chi thời. Kiếp Trược trung, phi đới nghiệp hoành xuất chi hạnh, tất bất năng độ.<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">解</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">劫濁者。濁法聚會之時。劫濁中。非帶業橫出之行。必不能度。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">(<b>Giải</b>: Kiếp Trược là lúc các pháp nhơ bẩn tụ hội. Trong thuở Kiếp Trược, nếu chẳng có hạnh “mang theo nghiệp vượt thoát theo chiều ngang”, ắt chẳng thể độ được)<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Đối với từ ngữ Ngũ Trược, trong đoạn Huyền Nghĩa trong phần trước đã trình bày đại lược, ở đây, tôi lại y theo lời giải thích của đại sư để giảng rõ.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Thứ nhất là Kiếp Trược. Chữ Kiếp (</span><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 14pt;">劫</span><span style="font-size: 14pt;">) chỉ thời đại. Trược (</span><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 14pt;">濁</span><span style="font-size: 14pt;">) là ô nhiễm. Chúng ta cảm nhận sâu xa sự ô nhiễm trong môi trường sinh thái và địa cầu. Các nhà khoa học đã đưa ra lời cảnh cáo: Nếu chẳng cải thiện tình hình ô nhiễm, thì năm mươi năm sau, thế giới này sẽ chẳng thích hợp cho nhân loại sanh sống. Hiện thời mọi người đều nghiên cứu vấn đề bảo vệ môi trường, nhưng hiệu quả chẳng lớn lắm. Đức Phật nói: <i>“Y báo chuyển theo chánh báo”</i>. Y báo là hoàn cảnh sống, hoàn cảnh bị ô nhiễm bởi chánh báo. Chánh báo là lòng người, tâm tịnh ắt cõi nước tịnh. Trong xã hội hiện thời, lòng người ô nhiễm, tư tưởng ô nhiễm, kiến giải ô nhiễm, tinh thần ô nhiễm; nếu chẳng dốc sức thanh tịnh hóa lòng người, sợ rằng chẳng thay đổi được gì. Ấn Quang đại sư đến tuổi xế chiều từng có lần chủ trì pháp hội Hộ Quốc Tức Tai tại Thượng Hải suốt bảy ngày. Ngày cuối cùng, Ngài truyền trao Tam Quy, Ngũ Giới, lúc ấy có đệ tử ghi chép những lời Ngài diễn giảng thành một cuốn sách nhỏ. Ngài đề xướng <i>“kiêng giết, ăn chay, niệm Phật, chẳng những có thể tiêu trừ tai nạn, mà còn có thể bảo vệ đất nước”.</i> Nếu bây giờ chúng tôi đề xướng thuyết ấy, ai sẽ tin tưởng? Nhưng ba điều ấy quả thật hữu hiệu, niệm Phật tịnh hóa lòng người, kiêng giết, ăn chay sẽ giảm nhẹ sự tàn bạo, dữ dằn, hiệu quả trông thấy lập tức. Đáng tiếc là mọi người chẳng tin tưởng, coi đó là mê tín. Đấy là cộng nghiệp khó lòng cứu vãn!<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">(Giải) Kiến Trược giả, Ngũ Lợi Sử tà kiến tăng thịnh, vị Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ, Giới Thủ, cập chư tà kiến. Hôn muội cốt một, cố danh vi Trược. Kiến Trược trung, phi bất giả phương tiện chi hạnh, tất bất năng độ.<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">解</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">見濁者。五利使邪見增盛。謂身見。邊見。見取。戒取。及諸邪見。昏昧汨沒。故名為濁。見濁中。非不假方便之行。必不能度。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">(<b>Giải</b>: Kiến Trược là năm thứ Lợi Sử tà kiến tăng trưởng mạnh mẽ, tức là Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Thủ Kiến, và các tà kiến. Tối tăm, chìm đắm, nên gọi là Trược. Trong thời Kiến Trược, nếu chẳng cậy vào hạnh phương tiện, ắt chẳng thể độ được).<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Thứ hai, “<i>Kiến Trược là năm thứ Lợi Sử tà kiến tăng trưởng mạnh mẽ”</i>. Ngũ Lợi Sử: Sử (</span><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 14pt;">使</span><span style="font-size: 14pt;">) có nghĩa là nha dịch, giống như cảnh sát hình sự hiện thời. Lợi (</span><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 14pt;">利</span><span style="font-size: 14pt;">) là lợi hại. Ngũ Lợi Sử chính là Kiến Hoặc. Kiến Hoặc chia thành năm thứ, tức Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Cấm Thủ Kiến và Tà Kiến. Trong phần trước tôi đã giảng cặn kẽ, ở đây không nói nhiều. Những kiến giải sai lầm này che lấp trí huệ trong chân tâm, nên gọi là Trược. Nếu chẳng nhờ vào phương tiện bậc nhất, ắt chẳng thể độ được.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">(Giải) Phiền Não Trược giả, Ngũ Độn Sử phiền hoặc tăng thịnh, vị tham, sân, si, mạn, nghi, phiền động não loạn, cố danh vi Trược. Phiền Não Trược trung, phi tức phàm tâm thị Phật tâm chi hạnh, tất bất năng độ.<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">解</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">煩惱濁者。五鈍使煩惑增盛。謂貪。瞋。癡。慢。疑。煩動惱亂。故名為濁。煩惱濁中。非即凡心是佛心之行。必不能度。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">(<b>Giải</b>: Phiền Não Trược là năm thứ Độn Sử phiền não mê hoặc tăng trưởng mạnh mẽ, tức là tham, sân, si, mạn, nghi gây phiền não, rối loạn, nên gọi là Trược. Trong thuở Phiền Não Trược, nếu không dùng hạnh “tâm phàm chính là tâm Phật”, ắt chẳng thể độ được).<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Kiến Trược là kiến giải sai lầm, tức thấy sai lầm. Phiền Não Trược là tư tưởng sai lầm, tức suy nghĩ lầm lạc. Ngũ Độn Sử cũng gồm năm loại lớn. Năm thứ Lợi Sử trong phần trước xảy đến mãnh liệt, còn năm thứ Độn Sử này tuy chẳng mãnh liệt nhưng rất khó đoạn. Cổ đức thường ví von là “<i>dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng</i>”. Dẫu cho đắc Tứ Quả La Hán, Kiến Hoặc và Tư Hoặc đều đã đoạn, nhưng tập khí vẫn còn. Ngũ Độn Sử là tham, sân, si, mạn, nghi. Tham là tham ái. Sân là nóng giận. Si là ngu si, đối với chân, vọng, tà, chánh, đúng, sai, thiện, ác, lợi, hại, chẳng phân biệt rõ ràng, thường thấy biết điên đảo. Trong các phiền não, ngu si là nghiêm trọng nhất, vì không có Huệ sẽ chẳng đoạn được Si, chỉ dựa vào Định vẫn chưa được. Do vậy, A La Hán có Cửu Thứ Đệ Định. Mạn là ngạo mạn. Nghi là hoài nghi. Nghi đây không phải là ngờ vực thông thường, mà là hoài nghi Thánh Ngôn Lượng, đời này sẽ khó thoát tam giới. Trong thời đại hiện thời, Phiền Não Trược nghiêm trọng hơn bất cứ thời kỳ nào trong quá khứ. Đại sư nói nếu chẳng dùng phương pháp “cái tâm phàm chính là tâm Phật” sẽ chẳng thể thành tựu. Nói theo Lý, tâm phàm chính là tâm Phật, về mặt Sự, thì [tâm phàm và tâm Phật] khác hẳn nhau. Ngoài pháp môn Niệm Phật ra, kinh Đại Thừa có nói tới Đồng Sanh Tánh và Dị Sanh Tánh. Hàng Bồ Tát từ Tam Hiền trở xuống và chúng sanh trong sáu đường đều là Dị Sanh Tánh, khó thể thành tựu. Phàm phu trong lục đạo càng chẳng dễ gì vượt thoát tam giới. Con người luân hồi, cuộc sống trong đời này ngắn ngủi, tạm bợ, cuộc sống trong những đời sau sẽ làm như thế nào đây? Người mê hoặc, điên đảo, chỉ thấy chuyện trước mắt, thường chẳng nghĩ tới hậu quả. Trong pháp môn tu hành, chỉ có tâm niệm Phật là chân tâm bổn tánh. Tâm tánh năng niệm chẳng thể nghĩ bàn, tâm ấy chính là Phật tâm, đức Phật được niệm chẳng thể nghĩ bàn. Phật hiệu là tánh đức, lại còn là đức hiệu (danh hiệu của phẩm đức nơi tự tánh) của chân tâm bổn tánh viên mãn. <i>Câu “tức phàm tâm thị Phật tâm chi hạnh”</i> chỉ pháp môn Niệm Phật vãng sanh. Trừ pháp môn này ra, ắt chẳng [có pháp môn nào khác mà] có thể độ được.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">(Giải) Chúng Sanh Trược giả, kiến phiền não, sở cảm thô tệ Ngũ Ấm hòa hợp, giả danh chúng sanh. Sắc, tâm tịnh giai lậu liệt, cố danh vi Trược. Chúng Sanh Trược trung, phi Hân Yếm chi hạnh, tất bất năng độ.<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">解</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">眾生濁者。見煩惱。所感麤弊五陰和合。假名眾生。色心並皆陋劣。故名為濁。眾生濁中。非欣厭之行。必不能度</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 14pt;">。</span></b><b><span style="font-size: 14pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">(<b>Giải</b>: Chúng Sanh Trược là do Kiến Hoặc, cảm vời Ngũ Ấm thô tệ hòa hợp, giả gọi là chúng sanh. Sắc lẫn tâm đều thô lậu, hèn kém, nên gọi là Trược. Trong thuở Chúng Sanh Trược, nếu không do hạnh Ưa Thích và Chán Lìa, ắt chẳng thể độ được).<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">“<i>Do các duyên hòa hợp mà sanh</i>” nên gọi là “<i>chúng sanh</i>”. Chúng sanh do Ngũ Ấm, tức Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức kết hợp thành. Sắc tượng trưng cho vật chất, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là tinh thần. Có cảm nhận, suy nghĩ liên tục sanh diệt trong từng sát-na. Trong Duy Thức Học gọi Thức là A Lại Da Thức, nói thông tục là “linh hồn”, nhà Phật gọi là “thần thức”. Luân hồi trong sáu nẻo là do thần thức đầu thai. Khi chưa khai ngộ kiến tánh, thần thức là chủ tể, đó là Ngã. Sau khi kiến tánh, chân tâm bổn tánh mới chính là con người thật của chính mình. Khi mê muội [chưa thấu hiểu] chân tâm bổn tánh thì gọi là Thức, ngộ rồi thì gọi là Chân Như Bổn Tánh. Thức và Chân Như Bổn Tánh là một, chẳng qua là hai danh từ khác nhau mà thôi. Chân tánh là bản thể của hết thảy vạn pháp trong vũ trụ, ở nơi hữu tình chúng sanh thì gọi là Phật Tánh, còn nơi vô tình chúng sanh thì gọi là Pháp Tánh. Do kiến giải, tư tưởng sai lầm nên cảm vời Sắc và Tâm đều chẳng thanh tịnh, nên gọi là Trược. Trong hoàn cảnh ô nhiễm này, ắt phải phát tâm lìa khỏi, ắt phải vui vẻ nguyện sanh về cõi Phật thanh tịnh nơi thế giới Tây Phương. Có hạnh Vui Cầu và Nhàm Lìa thì mới có hy vọng đắc độ.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">(Giải) Mạng Trược giả, nhân quả tịnh liệt, thọ mạng đoản xúc, nãi chí bất mãn bách tuế, cố danh vi Trược. Mạng Trược Trung, phi bất phí thời kiếp, bất lao cần khổ chi hạnh, tất bất năng độ.<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-TW" style="font-size: 16pt;">解</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-TW" style="font-size: 16pt;">命濁者,因果並劣,壽命短促,乃至不滿百歲,故名為濁。</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">命濁中,非不費時劫,不勞勤苦之行,必不能度。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">(<b>Giải</b>: Mạng Trược là nhân và quả đều kém cỏi, tuổi thọ ngắn ngủi, thậm chí chẳng đầy trăm tuổi, nên gọi là Trược. Trong thuở Mạng Trược, mà chẳng dùng hạnh “chẳng tốn kiếp số, chẳng cần phải nhọc nhằn tu tập”, ắt chẳng thể độ được).<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Mọi người thường nói tới khỏe mạnh, sống lâu, đấy là chuyện chúng sanh mong cầu nhiều nhất. Nếu luận theo nhân thì điều thứ nhất là phải có tâm thanh tịnh và tâm đại từ bi. Nếu cái nhân không tốt, tâm chẳng thanh tịnh, chẳng từ bi, thân ắt sẽ đoản mạng, lắm bệnh. Phật nói người có đủ sáu căn, tức sáu căn không thiếu sót, chẳng sứt sẹo, rất khó có. Bất cứ quả báo nào cũng đều có nguyên nhân. Nói theo mặt cương lãnh thì bố thí là nhân, phước báo là quả. Tài Bố Thí được giàu có, Pháp Bố Thí được thông minh, trí huệ, Vô Úy Bố Thí được mạnh khỏe, sống lâu. Chẳng tu nhân mà mong có quả báo tốt thì chính là huyễn tưởng. Con người hiện thời thiếu khuyết tâm từ bi và tâm thanh tịnh; do vậy, Mạng Trược. Trong thời kỳ này, nhất định phải chọn một phương pháp tu hành chẳng tốn bao nhiêu thời gian, chẳng phải nhọc nhằn tu tập thì mới hòng đắc độ.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">(Giải) Phục thứ, chỉ thử tín nguyện, trang nghiêm nhất thanh A Di Đà Phật, chuyển Kiếp Trược vi thanh tịnh hải hội, chuyển Kiến Trược vi vô lượng quang, chuyển Phiền Não Trược vi Thường Tịch Quang, chuyển Chúng Sanh Trược vi liên hoa hóa sanh, chuyển Mạng Trược vi vô lượng thọ. Cố, nhất thanh A Di Đà Phật tức Thích Ca Bổn Sư ư ngũ trược ác thế, sở đắc chi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề pháp. Kim dĩ thử quả giác toàn thể, thọ dữ trược ác chúng sanh, nãi chư Phật sở hành cảnh giới, duy Phật dữ Phật năng cứu tận, phi cửu giới tự lực sở năng tín giải dã. “</span></i></b><st1:place><b><i><span style="font-size: 14pt;">Chư</span></i></b></st1:place><b><i><span style="font-size: 14pt;"> chúng sanh”, biệt chỉ ngũ trược ác nhân. “Nhất thiết thế gian”, thông chỉ tứ độ khí thế gian, cửu giới hữu tình thế gian dã.<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">解</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">復次。祇此信願。莊嚴一聲阿彌陀佛。轉劫濁。為清淨海會。轉見濁。為無量光。轉煩惱濁。為常寂光。轉眾生濁。為蓮華化生。轉命濁。為無量壽。故一聲阿彌陀佛。即釋迦本師。於五濁惡世。所得之阿耨多羅三藐三菩提法。今以此果覺全體。授與濁惡眾生。乃諸佛所行境界。唯佛與佛能究盡。非九界自力。所能信解也。諸眾生。別指五濁惡人。一切世間。通指四土器世間。九界有情世間也。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">(<b>Giải</b>: Lại nữa, chỉ dùng tín nguyện này để trang nghiêm, niệm một tiếng A Di Đà Phật, sẽ chuyển Kiếp Trược thành hải hội thanh tịnh, chuyển Kiến Trược thành vô lượng quang, chuyển Phiền Não Trược thành Thường Tịch Quang, chuyển Chúng Sanh Trược thành hóa sanh trong hoa sen, chuyển Mạng Trược thành vô lượng thọ. Vì thế, một câu A Di Đà Phật chính là pháp mà đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã dùng để đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác trong đời ác ngũ trược. Nay Ngài đem toàn thể sự giác ngộ nơi Phật quả truyền cho chúng sanh trong đời trược ác. Đấy chính là cảnh giới thực hành của chư Phật, chỉ có</span></i><span style="font-size: 14pt;"> <i>Phật với Phật mới hòng thấu suốt cùng tận, chứ chúng sanh trong chín pháp giới cậy vào tự lực sẽ chẳng thể tin hiểu được. Chữ “chư chúng sanh” chỉ riêng những kẻ ác trong đời ngũ trược. Chữ “nhất thiết thế gian” chỉ chung thế giới vật chất trong bốn cõi và hữu tình chúng sanh trong chín pháp giới).<o:p></o:p></i></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha thì một tiếng A Di Đà Phật sẽ chuyển Kiếp Trược thành hải hội thanh tịnh, chuyển biến ngay lập tức. Chuyển Kiến Trược thành vô lượng quang, chuyển biến kiến giải sai lầm thành sự quán sát trí huệ. Chuyển Phiền Não Trược thành Thường Tịch Quang, chuyển hết thảy phiền não thành Đại Định. Chuyển Chúng Sanh Trược thành hóa sanh trong hoa sen, chuyển Mạng Trược thành vô lượng thọ. Cách chuyển như thế nào? Chỉ dựa vào tín nguyện trì danh, dễ dàng xiết bao! Khó ở chỗ người ta chẳng chịu tin tưởng. Hết thảy chư Phật đều cảm thán pháp này là pháp khó tin, ai có thể tin tưởng thì chính là người thật sự có phước. Phàm phu hoàn toàn chẳng thể thấu hiểu nghĩa lý của pháp này, đấy là đại phước báo viên mãn rốt ráo chẳng thể nghĩ bàn. Đại sư lại dạy rõ: Thích Ca Mâu Ni Phật do niệm A Di Đà Phật mà thành Phật, vì đức Phật Thích Ca đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề trong đời ác ngũ trược. A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà cũng là “<i>thành Phật</i>”. Nếu Phật chẳng giảng kinh Di Đà, chẳng dạy chúng ta pháp môn Niệm Phật, dù Phật có nói ngàn kinh muôn luận thì cũng là phạm lỗi thiếu sót đối với chúng ta. Chúng ta là phàm phu nghiệp chướng sâu nặng, nếu chẳng giảng pháp môn thành Phật viên mãn ngay trong một đời này thì làm sao gọi là đối xử đúng lẽ với con người cho được? Do vậy, hết thảy chư Phật nhất định chẳng phụ bạc chúng sanh. Tận hư không, khắp pháp giới tuyên dương phổ biến pháp môn này, bất luận tu học bất cứ pháp môn nào, Thiền Tông, Giáo Hạ, Mật Tông, Giới Luật, sau khi tu thành tựu, đến cuối cùng đều về thế giới Hoa Tạng, Hoa Tạng là chỗ quy túc chung. Đến được thế giới Hoa Tạng rồi sẽ gặp Văn Thù, Phổ Hiền. Văn Thù, Phổ Hiền dạy mọi người niệm Phật cầu sanh về thế giới Cực Lạc hòng viên thành Phật đạo. Khi tôi giảng Quán Kinh, giảng đến phần ba thứ phước, thấy “tin sâu nhân quả” được xếp vào điều thứ ba; nếu xếp vào điều thứ nhất, tôi cũng chẳng hoài nghi một tí nào, [nay tin sâu nhân quả] lại xếp vào điều thứ ba, mà điều thứ ba là pháp tu của Bồ Tát. Tôi giảng kinh cũng là giảng theo kiểu nuốt trộng quả táo, nhưng vẫn hoài nghi, tự hỏi Bồ Tát mà vẫn chẳng tin nhân quả hay sao? Nhiều năm sau mới biết “<i>niệm Phật là nhân, thành Phật là quả</i>”. Đấy là cảnh giới của Phật, rất nhiều vị Bồ Tát chẳng biết. Chúng sanh trong chín pháp giới nếu không được bổn nguyện và oai thần của Phật gia trì, sẽ đều chẳng tin tưởng. Chúng sanh thiện căn chưa chín muồi, Phật cũng chẳng gia trì được! Do vậy, đại sư nói: <i>“Chúng sanh trong chín pháp giới cậy vào tự lực sẽ chẳng thể tin hiểu được”.</i> Chữ “<i>chư chúng sanh</i>” riêng chỉ những kẻ tạo ác trong đời ác ngũ trược. Theo Thiện Đạo đại sư, chữ “<i>chư chúng sanh</i>” trong Quán Kinh chỉ ba bậc vãng sanh thuộc hạng Hạ. Ba phẩm thuộc bậc Thượng là đại tâm phàm phu, ba phẩm thuộc bậc Trung là phàm phu tu thiện trong thế gian, ba phẩm thuộc bậc Hạ là phàm phu tạo ác. Chữ “nhất thiết thế gian” chỉ chung các hữu tình thế gian trong chín pháp giới.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">(Giải) Tiền khuyến tín lưu thông, thị chư Phật phó chúc. Thử Bổn Sư phó chúc, chúc ngữ lược biệt tùng thông, đản vân “nhất thiết thế gian” do tiền chư Phật sở vân “nhữ đẳng chúng sanh”, đương tri Văn Thù, Ca Diếp đẳng, giai tại sở chúc dã.<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">解</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">前勸信流通。是諸佛付囑。此本師付囑。囑語略別從通。但云一切世間。猶前諸佛所云。汝等眾生。當知文殊迦葉等。皆在所囑也。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">(<b>Giải</b>: Đoạn Khuyến Tín Lưu Thông trong phần trước là lời dặn bảo của chư Phật. Trong đoạn này là đức Bổn Sư dặn bảo. Trong lời dặn bảo riêng này, chỉ nói đại lược, nhưng ý nghĩa vẫn giống như trong phần dặn bảo chung [của mười phương chư Phật]. Trong phần trước, chư Phật đã nói “chúng sanh các ngươi”, cho nên biết Văn Thù, Ca Diếp v.v... đều thuộc trong số những người được đức Phật căn dặn).<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Trong phần Lưu Thông, ba tiểu đoạn Tín, Nguyện, Hạnh đến đây là hết. Tiếp theo đây là lời đức Giáo Chủ khen ngợi để kết thúc. Phần sáu phương Phật [tán thán] trong phần trước chính là vô lượng vô biên chư Phật Như Lai dặn dò chúng ta, còn khuyên phát nguyện, khuyên hành trì là lời Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni dặn bảo. Lời dặn dò nằm trong phần kinh văn này, kinh văn khá giản lược, chỉ gồm hai từ ngữ <i>“nhữ đẳng chúng sanh”</i> và “<i>nhất thiết thế gian</i>”, nhưng bao gồm thánh phàm trong chín pháp giới. Văn Thù là thượng thủ của hàng Bồ Tát, Ca Diếp là thượng thủ trong hàng A La Hán, đều là đối tượng để Phật căn dặn.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> <o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> <b><i>(Kinh) Xá Lợi Phất! Đương tri ngã ư ngũ trược ác thế, hành thử nan sự, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vị nhất thiết thế gian, thuyết thử nan tín chi pháp, thị vi thậm nan.<o:p></o:p></i></b></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><b><i><span style="font-size: 14pt;"> </span></i></b><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">經</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">舍利弗。當知我於五濁惡世。行此難事。得阿耨多羅三藐三菩提。為一切世間。說此難信之法。是為甚難。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"> </span></b><b><i><span style="font-size: 14pt;">(Chánh kinh: </span></i></b><i><span style="font-size: 14pt;">Này Xá Lợi Phất! Hãy nên biết: Ta ở trong đời ác ngũ trược, làm chuyện khó khăn này, đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì hết thảy thế gian, nói pháp khó tin này, thật là rất khó).<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> Trong đoạn trước, đại sư đã nói: <b><i>“Vì thế, niệm một tiếng A Di Đà Phật, chính là pháp để Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác trong đời ác ngũ trược”</i></b> chính là dựa trên đoạn kinh văn ngắn ngủi này. Chúng ta niệm hằng ngày nhưng hoàn toàn chẳng nhận biết. Có người niệm kinh A Di Đà, niệm nhuyễn nhừ, nhưng nếu có ai hỏi: “Thích Ca Mâu Ni Phật do tu pháp môn gì mà thành Phật?” liền lúng túng không biết đáp ra sao. Nếu đại sư không nhắc nhở, chúng ta vẫn cứ lơ mơ chẳng hiểu biết y như cũ. Đủ thấy đại sư có ân đức rất lớn đối với chúng ta.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> <b><i>(Giải) Tín nguyện trì danh nhất hạnh, bất thiệp thi vi, viên chuyển ngũ trược, duy tín nãi nhập, phi tư nghị sở hành cảnh giới. Thiết phi Bổn Sư, lai nhập ác thế, thị đắc Bồ Đề. Dĩ đại trí, đại bi, kiến thử, hành thử, thuyết thử, chúng sanh hà do bẩm thử dã tai! Nhiên ngô nhân xử Kiếp Trược trung, quyết định vị thời sở hữu, vị khổ sở bức, xử Kiến Trược trung, quyết định vị tà trí sở triền, tà sư sở hoặc. Xử Phiền Não Trược trung, quyết định vị tham dục sở hãm, ác nghiệp sở thích. Xử Chúng Sanh Trược Trung, quyết định an ư xú uế, nhi bất năng đỗng giác, cam ư liệt nhược, nhi bất năng phấn phi. Xử Mạng Trược trung, quyết định vị vô thường sở thốn, thạch hỏa, điện quang, thố thủ bất cập. Nhược bất thâm tri kỳ thậm nan, tương vị cánh hữu biệt pháp khả xuất ngũ trược, bồng bột trạch lý, hý luận phân nhiên. Duy thâm tri kỳ thậm nan, phương khẳng tử tận thâu tâm, bảo thử nhất hạnh. Thử Bổn Sư sở dĩ cực khẩu, thuyết kỳ nan thậm, nhi thâm chúc ngã đẳng đương tri dã. Sơ phổ khuyến cánh.</i></b><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">解</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">信願持名一行。不涉施為。圓轉五濁。唯信乃入。非思議所行境界。設非本師。來入惡世。示得菩提。以大智大悲。見此。行此。說此。眾生何由稟此也哉。然吾人處劫濁中。決定為時所囿</span></b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 14pt;">。</span><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">為苦所偪。處見濁中。決定為邪智所纏。邪師所惑。處煩惱濁中。決定為貪欲所陷。惡業所螫。處眾生濁中。決定安於臭穢。而不能洞覺。甘於劣弱。而不能奮飛。處命濁中。決定為無常所吞。石火電光。措手不及。若不深知其甚難。將謂更有別法可出五濁。熢勃宅裡。戲論紛然。唯深知其甚難。方肯死盡偷心。寶此一行。此本師所以極口。說其難甚。而深囑我等當知也。初普勸竟。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><i><span style="font-size: 14pt;">(<b>Giải</b>: Một hạnh tín nguyện trì danh, chẳng xen lẫn những hạnh nghiệp nào khác, chuyển biến trọn vẹn ngũ trược, chỉ có tin mới hòng chứng nhập, là cảnh giới chẳng thể do nghĩ bàn mà hòng thấu hiểu được. Nếu đức Bổn Sư chẳng vào trong đời ác, thị hiện chứng đắc Bồ Đề, do đại trí, đại bi, thấy điều này, hành pháp này, giảng pháp này, chúng sanh sẽ do đâu mà nhận lãnh được pháp này vậy thay? Nhưng chúng ta sống trong Kiếp Trược, quyết định bị thời đại vây bủa, bị khổ não bức bách. Sống trong Kiến Trược, chắc chắn bị tà trí trói buộc, bị tà sư mê hoặc. Sống trong Phiền Não Trược, chắc chắn bị tham dục vây hãm, bị ác nghiệp cắn rứt. Sống trong Chúng Sanh Trược, chắc chắn ở yên trong cảnh hôi nhơ mà chẳng thấu hiểu, cam lòng kém hèn, chẳng thể phấn chấn mạnh mẽ tiến lên. Ở trong Mạng Trược, chắc chắn bị vô thường nuốt mất, [mạng người ngắn ngủi] như tia lửa xẹt do đập vào đá, như ánh chớp, trở tay chẳng kịp. Nếu chẳng biết sâu xa [thoát ly Ngũ Trược] là cực khó, ắt sẽ ngỡ còn có một pháp nào khác để thoát khỏi Ngũ Trược, cứ hý luận rối bời trong ngôi nhà lửa cháy bừng bừng. Chỉ có hiểu sâu</span></i><span style="font-size: 14pt;"> <i>xa [thoát ly Ngũ Trược] là rất khó thì mới chịu chết sạch tấm lòng mong ngóng so đo, quý báu một hạnh này. Đây chính là lý do vì sao đức Bổn Sư cạn hết lời, bảo pháp này rất khó, lại còn tha thiết dặn dò chúng ta phải nên thấu hiểu. [Đoạn lớn] thứ nhất [trong phần Lưu Thông] là Phổ Khuyến hết).<o:p></o:p></i></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">“<i>Tín nguyện trì danh nhất hạnh, bất thiệp thi vi</i>”: “<i>Thiệp</i>” (</span><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 14pt;">涉</span><span style="font-size: 14pt;">) là thiệp cập (</span><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 14pt;">涉及</span><span style="font-size: 14pt;">: dính dáng), “<i>thi vi</i>” (</span><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 14pt;">施為</span><span style="font-size: 14pt;">) là chẳng dùng tới phương tiện, chẳng dùng những pháp môn nào khác để phụ trợ; chẳng dùng Thiền mà cũng chẳng dùng chú. Dùng ngay một câu Phật hiệu này bèn có thể chuyển biến trọn vẹn ngũ trược. Trong thời rất gần đây, ở Đài Loan bị hạn hán thiếu nước, Quán Trưởng phát khởi lòng từ bi, tính thông báo đạo tràng tại Đài Bắc hãy cầu mưa, hỏi tôi cách thức cầu mưa. Trong Thiền Môn Nhật Tụng có Cầu Vũ Nghi Quy (nghi thức cầu mưa). Trong quá khứ, Liên Trì đại sư trụ tích<a href="https://www.niemphat.net/Luan/yeugiaigiangky/yeugiai9.htm#_ftn6" name="_ftnref6" title=""><span style="font-size: 14pt;">[6]</span></a> tại Hàng Châu, có một năm trời hạn hán. Quan Thái Thú Hàng Châu biết đại sư là bậc cao tăng hữu đức, thỉnh Ngài lập đàn cầu mưa. Đại sư nói: <i>“Tôi chỉ biết niệm Phật, chẳng biết cầu mưa, nhưng là chuyện cầu phước cho dân chúng thì cũng nên tùy hỷ”.</i> Ngài liền dẫn đồ đệ niệm Phật suốt trên đường đi. Đại sư đi tới đâu, trời đổ mưa tới đó, cũng là kỳ tích. Trong truyện ký của Liên Trì đại sư có chép chuyện này. Bất luận cầu điều gì, chỉ một câu Phật hiệu thật sự đủ dùng rồi.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trong thế gian, do đại trí, đại bi, thấy pháp trì danh niệm Phật này sẽ thành Phật, bèn đích thân thực hành, và nói cho chúng ta biết, chúng ta mới biết ân đức lớn lao của Phật. Sống trong cõi đời nhơ bẩn này, giống như tù nhân bị nhốt chặt trong ngục khó trốn, lại không may gặp phải thời pháp yếu, ma mạnh. Đạo tràng chánh pháp phần nhiều đìu hiu; ngược lại, đạo tràng của tà sư đông đúc. Chúng ta tự thẹn đạo đức, định lực chẳng đủ, trước hết, hãy nên thành tựu chính mình, đừng bị mê hoặc, trói buộc bởi tà trí, tà sư. Hãy nên biết rằng: Trong đời này, không ai chẳng tham, tham là hầm bẫy. Tham tiếng tăm, lợi dưỡng thế gian, ngũ dục, lục trần chính là hầm bẫy tam ác đạo. Tham pháp xuất thế gian thì vẫn là cạm bẫy tam ác đạo. Đức Phật bảo chúng ta trừ khử tâm tham, chứ không bảo chúng ta thay đổi đối tượng tham lam. Nếu có pháp môn nào chưa học, đợi đến Tây Phương hãy học cũng chẳng muộn. Trong giai đoạn hiện thời, nhất tâm nhất ý cầu sanh Tịnh Độ. Trong xã hội hiện thời, đại đa số con người tâm chẳng thanh tịnh, tranh danh, đoạt lợi, đều là tạo ác, điều sai chồng chất mãi trở thành đúng. Nếu chẳng tùy thuận thế tục, đâm ra sẽ bị coi như kẻ quái dị. Vì thế, chúng ta phải độc lập, độc hành thì mới có thể thoát khỏi [người đời dị nghị].<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">“<i>Bồng bột trạch lý, hý luận phân nhiên</i>” (trong căn nhà cháy bừng bừng, tơi bời hý luận): Trong căn nhà khói lửa mù mịt như thế, người tỉnh táo sẽ gấp rút chạy thoát thân, kẻ mê hoặc vẫn ở trong nhà thảo luận, nghiên cứu. Chỉ có thấu hiểu [tam giới] rất khó thoát lìa, mới chịu chết sạch những ý nghĩ chụp giựt, cầu may, coi một câu A Di Đà như thần chú cứu mạng hết sức quý báu.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><b><span style="font-size: 14pt;">4.3.2. Kết khuyến<o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> <b><i>(Kinh) Phật thuyết thử kinh dĩ, Xá Lợi Phất, cập chư tỳ-kheo, nhất thiết thế gian, thiên, nhân, A Tu La đẳng, văn Phật sở thuyết, hoan hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ.<o:p></o:p></i></b></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><b><i><span style="font-size: 14pt;"> (Giải) Pháp môn bất khả tư nghị, nan tín, nan tri, vô nhất nhân<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">năng phát vấn giả. Phật trí giám cơ, tri chúng sanh thành Phật duyên thục, vô vấn tự thuyết, linh đắc tứ ích, như thời vũ hóa. Cố “hoan hỷ tín thọ” dã. Thân tâm di duyệt, danh “hoan hỷ”. Hào vô nghi nhị, danh “tín”. Lãnh nạp bất vong, danh “thọ”. Cảm đại ân đức, đầu thân quy mạng, danh “tác lễ”. Y giáo tu trì, nhất vãng bất thoái, danh “nhi khứ”.<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">經</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">佛說此經已。舍利弗。及諸比丘。一切世間。天人阿修羅等。聞佛所說。歡喜信受。作禮而去。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"> <o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><span style="font-size: 16pt;">(</span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">解</span></b><b><span style="font-size: 16pt;">) </span></b><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">法門不可思議。難信難知。無一人能發問者。佛智鑒機。知眾生成佛緣熟。無問自說。令得四益。如時雨化。故歡喜信受也。身心怡悅。名歡喜。毫無疑貳。名信。領納不忘。名受。感大恩德。投身歸命。名作禮。依教修持。一往不退。名而去。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> <i>(<b>Chánh kinh</b>: Đức Phật nói kinh này xong, ngài Xá Lợi Phất và các vị tỳ-kheo, hết thảy thế gian, trời, người, A Tu La v.v... nghe lời Phật dạy, hoan hỷ tin nhận, làm lễ, lui ra.<o:p></o:p></i></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><i><span style="font-size: 14pt;"> <b>Giải</b>: Pháp môn chẳng thể nghĩ bàn, khó tin, khó biết, không một ai có thể nêu câu hỏi. Đức Phật dùng trí huệ xét soi căn cơ, biết duyên thành Phật của chúng sanh đã chín, bèn không ai hỏi tự nói, khiến cho mọi người được bốn thứ lợi ích, giống như trận mưa đúng thời khiến cho muôn loài tăng trưởng. Vì thế, [đại chúng] “hoan hỷ tín thọ” (hoan hỷ tin nhận). Thân tâm vui sướng gọi là “hoan hỷ”. Chẳng nghi ngờ mảy may, gọi là “tín”. Lãnh nhận chẳng quên mất, gọi là “thọ” (nhận). Cảm kích ân đức lớn lao, gieo toàn thân quy mạng, gọi là “tác lễ”. Vâng theo lời dạy tu trì, thẳng tiến chẳng lui sụt, gọi là “nhi khứ”).<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> Tuy đức Thế Tôn gọi ngài Xá Lợi Phất, mà ngài Xá Lợi Phất từ đầu đến giờ chẳng thưa một câu. Đối với chuyện này, Ngài chẳng biết một điều nào, cho thấy pháp môn này chẳng thể nghĩ bàn, khó tin, khó biết. Đây là cảnh giới viên mãn nơi quả địa Như Lai, Phật dùng trí huệ viên mãn xét soi chúng sanh, thấy cơ duyên của họ đã chín muồi, không ai hỏi tự nói, nói ra bộ kinh A Di Đà này. Chúng ta nghe xong, nếu hoan hỷ tin nhận, liền được bổn nguyện và oai thần của chư Phật Như Lai gia trì, giống như mưa ngọt đúng lúc, thân tâm vui sướng, đối với lời Phật nói chẳng hoài nghi mảy may, hoàn toàn tiếp nhận lời Phật giáo huấn, cảm tạ ân đức khôn sánh của đức Thế Tôn, nương theo lời dạy tu trì. Pháp hội đã giải tán nhưng tu hành mới bắt đầu. Chính mình phải vui mừng, chớ phụ bạc thiện căn từ vô lượng kiếp của chính mình, đừng phụ bạc chư Phật gia trì, đừng phụ bạc Thích Ca Mâu Ni Phật buốt lòng rát miệng vì chúng ta nói ra pháp môn này, mà cũng đừng phụ rẫy Ngẫu Ích đại sư đã giải thích cặn kẽ trong cuốn Di Đà Yếu Giải này, khiến cho chúng ta có thể trên báo bốn ân, dưới cứu tam khổ. Hôm nay đã giảng đến ngày thứ bốn mươi tám, viên mãn vừa khéo. Cảm ơn quý vị.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><b><span style="font-size: 14pt;">Phụ lục - Ngẫu Ích đại sư bạt<o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> <b><i>Kinh vân: “Mạt pháp ức ức nhân tu hành, hãn nhất đắc đạo. Duy y niệm Phật đắc độ”. Ô hô! Kim chánh thị kỳ thời hỹ! Xả thử bất tư nghị pháp môn, kỳ hà năng thục? Húc xuất gia thời, tông thừa tự phụ, miểu thị giáo điển, vọng vị trì danh, khúc vi trung hạ. Hậu nhân đại bệnh, phát ý Tây quy. Phục nghiên Diệu Tông, Viên Trung nhị sao, cập Vân Thê Sớ Sao đẳng thư, tri kỳ Niệm Phật tam-muội, thực vô thượng bảo vương, phương khẳng tử tâm, chấp trì danh hiệu, vạn ngưu mạc vãn dã. Ngô hữu Khứ Bệnh, cửu sự Tịnh nghiệp, dục linh thử kinh đại chỉ, từ bất phiền, nhi bỉnh trước, thỉnh dư vị thuật Yếu Giải. Dư dục phổ dữ pháp giới hữu tình đồng sanh Cực Lạc, lý bất khả khước, cử bút vu Đinh Hợi cửu nguyệt nhị thập hữu thất, thoát cảo ư thập nguyệt sơ ngũ, phàm cửu nhật cáo thành. Sở nguyện nhất cú, nhất tự, hàm tác tư lương, nhất kiến, nhất văn, đồng giai Bất Thoái. Tín nghi giai thực đạo chủng, tán báng đẳng quy giải thoát. Ngưỡng duy chư Phật, Bồ Tát, nhiếp thọ chứng minh, đồng học hữu nhân tùy hỷ gia bị.<o:p></o:p></i></b></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><b><i><span style="font-size: 14pt;">Tây Hữu đạo nhân Ngẫu Ích Trí Húc các bút cố bạt, thời niên tứ thập hữu cửu.<o:p></o:p></span></i></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">蕅益大師跋</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><b><span face="DFKai-SB" lang="ZH-CN" style="font-size: 16pt;">經云:末法億億人修行,罕一得道,唯依念佛得度。嗚呼!今正是其時矣。捨此不思議法門,其何能淑。旭出家時,宗乘自負,藐視教典。妄謂持名,曲為中下。後因大病,發意西歸。復研《妙宗》《圓中》二鈔,及雲棲《疏鈔》等書,始知念佛三昧,實無上寶王,方肯死心執持名號,萬牛莫挽也。吾友去病,久事淨業,欲令此經大旨,辭不繁而炳著,請余為述要解。余欲普與法界有情同生極樂,理不可卻。舉筆于丁亥九月二十有七,脫稿於十月初五,凡九日告成。所願一句一字,咸作資糧。一見一聞,同階不退。信疑皆植道種,讚謗等歸解脫。仰唯諸佛菩薩攝受證明,同學友人隨喜加被。西有道人蕅益智旭閣筆故跋,時年四十有九。</span></b><b><span style="font-size: 16pt;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><b><span style="font-size: 14pt;">Lời bạt của Ngẫu Ích đại sư<o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> Kinh dạy: <i>“Trong đời Mạt Pháp, ức ức người tu hành, hiếm có một ai đắc đạo, chỉ có nương vào pháp Niệm Phật thì mới đắc độ”.</i> Than ôi! Nay đúng nhằm thời ấy vậy. Bỏ pháp môn chẳng thể nghĩ bàn này, thì còn cậy vào đâu để giải thoát cho được? Húc tôi lúc xuất gia, tự phụ là người thuộc Thiền Tông, coi thường những kinh điển thuộc Giáo môn, nói xằng “phép trì danh là pháp quyền biến nhằm phù hợp căn tánh của những kẻ trung căn và hạ căn”. Về sau, do bệnh ngặt nghèo, mới phát tâm quy Tây. Lại nghiên cứu hai bộ Viên Trung Sao và Diệu Tông Sao, và sách Sớ Sao của ngài Vân Thê, mới biết Niệm Phật tam-muội quả thật là vua báu vô thượng, mới chịu chết sạch tấm lòng mong ngóng, so đo, chấp trì danh hiệu, một vạn con trâu cũng không lôi lại được. Bạn tôi là ông Khứ Bệnh, tu Tịnh nghiệp đã lâu, muốn cho tông chỉ của kinh này nêu tỏ rạng ngời mà lời lẽ giảng giải đơn giản, xin tôi viết lời giải thích những điểm trọng yếu. Tôi muốn làm cho hữu tình trong khắp pháp giới đều cùng sanh về Cực Lạc, xét theo lý chẳng thể chối từ được, bèn cầm bút viết từ ngày Hai Mươi Bảy tháng Chín năm Đinh Hợi (1647), đến ngày mồng Năm tháng Mười là hoàn thành, tổng cộng viết xong trong chín ngày. Kính mong mỗi một câu, mỗi một chữ đều là tư lương [cho người tu Tịnh nghiệp]. Ai thấy, ai nghe cũng đều đạt lên Bất Thoái. Người tin tưởng hay nghi ngờ, kẻ khen ngợi hay hủy báng đều cùng về giải thoát. Ngưỡng mong chư Phật, Bồ Tát nhiếp thọ, chứng minh, các bạn đồng học tùy hỷ gia bị.<o:p></o:p></span></p><p align="center" class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><span style="font-size: 14pt;">Tây Hữu đạo nhân Ngẫu Ích Trí Húc gác bút.<o:p></o:p></span></p><p align="center" class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><span style="font-size: 14pt;">(Đề lời bạt này vào năm bốn mươi chín tuổi).<o:p></o:p></span></p><p align="center" class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><b><span style="font-size: 14pt;">Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải Giảng Ký<o:p></o:p></span></b></p><p align="center" class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><b><span style="font-size: 14pt;">Trọn bộ<o:p></o:p></span></b></p><p align="center" class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><span style="font-size: 14pt;">(Hoàn thành cảo bản ngày 22 tháng 09 năm 2010<o:p></o:p></span></p><p align="center" class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><span style="font-size: 14pt;">Giảo duyệt lần hai ngày 26 tháng 9 năm 2011)<o:p></o:p></span></p><p align="center" class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p align="center" class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><b><span style="font-size: 14pt;">Hồi Hướng<o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify; text-indent: 0.3in;"><span style="font-size: 14pt;">Nếu việc chuyển ngữ này có chút công đức nào đều xin hồi hướng cho cha mẹ hiện tiền và quá vãng, sư trưởng, Bổn Sư Thượng Tọa Thích Giải Thắng (trụ trì Bửu Quang Tự, quận 7, Sài Gòn), lịch đại tổ tiên, cừu gia oán đối nhiều đời nhiều kiếp, các liên hữu cùng hết thảy hữu tình hàm thức trong mười phương pháp giới đều cùng vãng sanh Cực Lạc quốc. Cũng như đặc biệt trân trọng hồi hướng công đức này đến các liên hữu Vạn Từ, Minh Tiến, Huệ Trang, Đức Phong và Chơn Phù đã tốn không ít thời gian và công sức giảo duyệt, sửa chữa bản dịch Trong quá trình chuyển ngữ, do kiến thức nông cạn, hiểu biết nội điển kém cỏi, tâm trí si ám, nghiệp chướng trùng trùng chắc chắn sẽ phạm rất nhiều lỗi sai lầm không thể chấp nhận được, ngưỡng xin Tam Bảo từ bi gia hộ khiến cho chúng đệ tử tội chướng tiêu trừ, không đến nỗi đọa lạc, không đến nỗi biến diệu dược cam lộ thành độc dược.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></p></div><div style="text-align: start;"><br clear="all" /><hr align="left" size="1" width="33%" /><div id="ftn1"><p class="MsoFootnoteText" style="font-size: 10pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><a href="https://www.niemphat.net/Luan/yeugiaigiangky/yeugiai9.htm#_ftnref1" name="_ftn1" title=""><span class="MsoFootnoteReference" style="vertical-align: super;"><span style="font-size: 12pt;">[1]</span></span></a><span style="font-size: 12pt;"> [Ghi chú của cư sĩ Lưu Thừa Phù]: “<i>Chuyển Thức thành Trí </i>” như trên đã nói, chủ yếu là hai Thức thứ sáu và thứ bảy. Hai thức thứ sáu và thứ bảy đã chuyển thì thức thứ tám cũng chuyển theo, trở thành Đại Viên Kính Trí. Năm Thức trước là Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và [thức thứ sáu là] Ý cũng chuyển theo Thành Sở Tác Trí. Tên gọi của bốn Trí này được Thành Duy Thức Luận giải thích như sau:<o:p></o:p></span></p><p class="MsoFootnoteText" style="font-size: 10pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt;">1) Như Lai vì muốn lợi lạc các chúng sanh nên trong khắp mười phương thế giới, thị hiện các thứ thần thông biến hóa, dẫn các chúng sanh bước vào thánh đạo, thành tựu những điều đáng làm theo nguyện lực của chính mình nên gọi là Thành Sở Tác Trí.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoFootnoteText" style="font-size: 10pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt;">2) Như Lai khéo quán sát viên dung các pháp theo thứ tự, lại biết căn tánh và sự ưa thích, ham muốn của chúng sanh, mà dùng vô ngại biện tài nói các diệu pháp, khiến họ khai ngộ, đạt được đại an lạc. Trí ấy gọi là Diệu Quán Sát Trí.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoFootnoteText" style="font-size: 10pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt;">3) Như Lai quán hết thảy pháp và hết thảy chúng sanh đều bình đẳng, do tâm đại từ bi, tùy thuận căn cơ mà thị hiện hướng dẫn, chỉ dạy, khiến họ chứng nhập thì gọi là Bình Đẳng Tánh Trí.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoFootnoteText" style="font-size: 10pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt;">4) Bổn tánh của chân trí Như Lai là thanh tịnh, xa lìa các trần nhiễm, trong ngoài rỗng rang, thấu suốt, không tối tăm, không nhơ bẩn, như tấm gương tròn lớn, chiếu tỏ muôn vật, không gì chẳng hiểu rõ thì gọi là Đại Viên Kính Trí.<o:p></o:p></span></p></div><div id="ftn2"><p class="MsoFootnoteText" style="font-size: 10pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><a href="https://www.niemphat.net/Luan/yeugiaigiangky/yeugiai9.htm#_ftnref2" name="_ftn2" title=""><span class="MsoFootnoteReference" style="vertical-align: super;"><span style="font-size: 12pt;">[2]</span></span></a><span style="font-size: 12pt;"> Theo luận Câu Xá, tầng thấp nhất của một thế giới gọi là Phong Luân (V<span class="apple-style-span"><span style="color: #333333;">āyu</span></span> mandala), tức là một tầng không khí. Phía dưới tầng Phong Luân ấy gọi là Không Luân (<span class="apple-style-span"><span style="color: #333333;">Ākā</span>ś<span style="color: #333333;">a-mandala, </span></span>tức hư không). Phong Luân dầy mười sáu ức do-tuần, kiên cố như kim cang. Trên Phong Luân có Thủy Luân (Jala-mandala) gồm toàn nước, dầy tám ức do-tuần. Trên Thủy Luân là Kim Luân </span><span class="apple-converted-space"><span style="color: #333333; font-size: 12pt;">(K</span></span><span class="apple-style-span"><span style="color: #333333; font-size: 12pt;">āñcana-mandala)</span></span><span style="font-size: 12pt;">, dầy ba ức hai vạn do-tuần, do chất kim cang kết thành hình tròn xoe như bánh xe. Phía trên Kim Luân là chín rặng núi lần lượt vây quanh nhau, gần như những vòng tròn đồng tâm, tính từ trong ra ngoài là Tu Di (Sumeru), Du Càn Đà La (Yugandhara), Y Sa Đà La (Isadhara), Khư Đề La (Khadiraka), Tô Đạt Lê Xá Na (<span class="apple-style-span">Sudarśana)</span>, An Thấp Phược Kiệt Noa (<span class="apple-style-span">Aśvakarna)</span>, Tỳ Na Đà La (Vinadhara), Ni Dân Đà La (Nimindhara), Chước Ca La (<span class="apple-style-span">Cakravāda</span>, Thiết Vy sơn) và tám cái biển lớn (tám cái biển chứa toàn nước thơm, nên gọi là Hương Thủy Hải. Mỗi biển nằm giữa các rặng núi, từ ngoài vào trong có chín vòng núi nên có tám biển Hương Thủy), vây quanh đại địa. Tầng này gọi là Địa Luân (Pr<span class="apple-style-span"><span style="color: #333333;">thivī</span></span>-mandala).<o:p></o:p></span></p></div><div id="ftn3"><p class="MsoFootnoteText" style="font-size: 10pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><a href="https://www.niemphat.net/Luan/yeugiaigiangky/yeugiai9.htm#_ftnref3" name="_ftn3" title=""><span class="MsoFootnoteReference" style="vertical-align: super;"><span style="font-size: 12pt;">[3]</span></span></a><span style="font-size: 12pt;"> [Chi chú của cư sĩ Lưu Thừa Phù]: Trong đoạn văn trên đây, [lão pháp sư] nhắc tới năm phần Pháp Thân Hương, toàn văn được chép trong phẩm Sám Hối thứ năm của Lục Tổ Đàn Kinh. Ở đây, tôi sao lục một đoạn nguyên văn để độc giả tham khảo: <i>“Khi ấy, đại sư thấy mọi người từ bốn phương trong xứ Quảng Thiều kéo nhau vào núi nghe pháp. Sư liền lên tòa, bảo đại chúng: “Các thiện tri thức hãy đến đây. Chuyện này phải từ trong tự tánh mà khởi. Trong hết thảy thời, niệm niệm tự tịnh cái tâm, tự tu cái hạnh, thấy Pháp Thân của chính mình, thấy đức Phật trong tự tâm, tự độ, tự giữ giới thì mới chẳng tốn công đến đây. Đã từ xa đến, họp mặt tại đây, đều là cùng nhau có duyên. Nay ai nấy hãy nên hồ quỳ, trước hết, tôi sẽ truyền năm phần Pháp Thân Hương trong tự tánh, kế đến dạy pháp vô tướng sám hối”. Mọi người hồ quỳ. Sư nói:<o:p></o:p></i></span></p><p class="MsoFootnoteText" style="font-size: 10pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><i><span style="font-size: 12pt;">- Thứ nhất, Giới Hương, chính là trong tự tâm không sai, không ác, không ganh ghét, không tham sân, không cướp hại thì gọi là Giới Hương.<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoFootnoteText" style="font-size: 10pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><i><span style="font-size: 12pt;">- Thứ hai, Định Hương, tiếp xúc các cảnh tướng thiện ác, tự tâm chẳng loạn thì gọi là Định Hương.<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoFootnoteText" style="font-size: 10pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><i><span style="font-size: 12pt;">- Thứ ba, Huệ Hương, tự tâm vô ngại, thường dùng trí huệ quán chiếu tự tánh, chẳng tạo các điều ác. Tuy tu các điều lành, tâm chẳng chấp trước, kính trên, nghĩ dưới, thương xót giúp đỡ kẻ cô đơn, nghèo túng, gọi là Huệ Hương.<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoFootnoteText" style="font-size: 10pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><i><span style="font-size: 12pt;">- Thứ tư, Giải Thoát Hương, tức là trong tâm không nắm níu gì, chẳng nghĩ lành, chẳng nghĩ ác, tự tại vô ngại, gọi là Giải Thoát Hương.<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoFootnoteText" style="font-size: 10pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><i><span style="font-size: 12pt;">- Thứ năm, Giải Thoát Tri Kiến Hương, tự tâm đã không nắm níu thiện và ác, chớ nên trầm trệ nơi không tịch, dẫu cho học rộng nghe nhiều vẫn hiểu biết bổn tâm của chính mình, thông đạt các Phật lý, hòa đồng với chúng sanh để tiếp độ họ, không ta, không người, mãi cho đến khi đắc Bồ Đề, chân tánh chẳng thay đổi thì gọi là Giải Thoát Tri Kiến Hương.<o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoFootnoteText" style="font-size: 10pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><i><span style="font-size: 12pt;">Bậc thiện tri thức dùng các thứ hương này tự xông ướp bên trong, chớ nên hướng ra ngoài tìm cầu. Nay tôi dạy cho các ông vô tướng sám hối, diệt tội trong ba đời, khiến cho tam nghiệp được thanh tịnh</span></i><span style="font-size: 12pt;">”.<o:p></o:p></span></p></div><div id="ftn4"><p class="MsoFootnoteText" style="font-size: 10pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><a href="https://www.niemphat.net/Luan/yeugiaigiangky/yeugiai9.htm#_ftnref4" name="_ftn4" title=""><span class="MsoFootnoteReference" style="vertical-align: super;"><span style="font-size: 12pt;">[4]</span></span></a><span style="font-size: 12pt;"> Theo Phật Quang Sơn Đại Từ Điển, “hộ niệm” có nghĩa là che chở, quan tâm, bảo vệ. Chư Phật, Bồ Tát và chư thiên, hộ pháp thần thường quan tâm bảo vệ Phật giáo đồ khiến cho họ chẳng bị các thứ chướng ngại gây hại như bóng theo hình, chẳng hề tách lìa chút nào, nhắc nhở, sách tấn họ khiến cho họ không giải đãi, lui sụt. Hiểu theo nghĩa này thì hộ niệm còn gọi là “ảnh hộ hộ niệm”. Ngoài ra, nhằm chứng minh những giáo pháp do Phật đã nói là chân thực, Phật, Bồ Tát liền lập thệ nếu có chúng sanh nào tin nhận, phụng hành, sẽ đạt được lợi ích vô tận. Đó gọi là “chứng thành hộ niệm”. Sự hộ niệm của chư Phật đối với danh hiệu A Di Đà Phật trong đoạn Yếu Giải kế tiếp chính là “chứng thành hộ niệm”. Chư Phật, Bồ Tát, hộ pháp thần luôn hộ niệm hành nhân, nhưng do chính phiền não của hành nhân gây chướng ngại, không thể thụ dụng sự hộ niệm ấy. Vì thế mới nói phải từ Bát Địa trở lên mới được chư Phật hộ niệm, bởi lẽ, đạt đến Bát Địa mới không bị phiền não gây chướng ngại sự hộ niệm của chư Phật.<o:p></o:p></span></p></div><div id="ftn5"><p class="MsoFootnoteText" style="font-size: 10pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><a href="https://www.niemphat.net/Luan/yeugiaigiangky/yeugiai9.htm#_ftnref5" name="_ftn5" title=""><span class="MsoFootnoteReference" style="vertical-align: super;"><span style="font-size: 12pt;">[5]</span></span></a><span style="font-size: 12pt;"> Sở dĩ gọi là chánh tín vì những vị pháp sư ấy tin tường cõi Cực Lạc, tin có A Di Đà Phật, tin A Di Đà Phật tiếp dẫn chúng sanh niệm Phật nên mới khuyên người khác niệm Phật. Do vậy, lòng tin tưởng ấy là đúng nên gọi là chánh tín. Nhưng họ chỉ tin chứ không phát nguyện vãng sanh, tức là chưa có lòng tin thật sự nơi năng lực chẳng thể nghĩ bàn của pháp môn này, nên chẳng thể gọi là “chân tín”.<o:p></o:p></span></p></div><div id="ftn6"><p class="MsoFootnoteText" style="font-size: 10pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><a href="https://www.niemphat.net/Luan/yeugiaigiangky/yeugiai9.htm#_ftnref6" name="_ftn6" title=""><span class="MsoFootnoteReference" style="vertical-align: super;"><span style="font-size: 12pt;">[6]</span></span></a><span style="font-size: 12pt;"> Trụ tích (Cắm gậy tích trượng): Từ ngữ dùng để chỉ một vị Tăng ở lại một đạo tràng hoặc tự viện nào đó trong một thời gian dài để hoằng dương giáo hóa.</span></p><p class="MsoFootnoteText" style="font-size: 10pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 12pt;"><br /></span></p></div></div></div><div>
<audio controls="">
<source src=" http://www.hoalinhthoai.com/music-file/04_AoCaSa_NgocKy.mp3" type="audio/mpeg"></source>
</audio></div>
voluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8726509563833692641.post-86637144324865740592021-11-18T10:42:00.002+07:002022-06-10T08:55:33.826+07:00Phật dạy trong Kinh Tăng chi bộ về tài sản của bậc Thánh nhân<p><b itemprop="description" style="color: #333333; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"></b></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><b itemprop="description" style="color: #333333; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg0rjG6BouT0heM_jA45HM1rtsVw8XdE1RdIATUplu9sh6fsM6Z5fp2zx39mLdOtKVT7eQsLExlK7fZHV6_BA6AoJnOGKrd2K9kxA3TDxfYOnOPvls4QZI-He9VED6uTVbywmhfCYlHHp_cVbJ9RbQDTLo_JJVI2pGUCWMYkMTY_StxpmFHwsoFzkr6ug/s390/tai-san-cua-thanh-nhan.jpg" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="250" data-original-width="390" height="205" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg0rjG6BouT0heM_jA45HM1rtsVw8XdE1RdIATUplu9sh6fsM6Z5fp2zx39mLdOtKVT7eQsLExlK7fZHV6_BA6AoJnOGKrd2K9kxA3TDxfYOnOPvls4QZI-He9VED6uTVbywmhfCYlHHp_cVbJ9RbQDTLo_JJVI2pGUCWMYkMTY_StxpmFHwsoFzkr6ug/s320/tai-san-cua-thanh-nhan.jpg" width="320" /></a></b></div><div style="text-align: justify;"><b itemprop="description" style="color: #333333; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><b itemprop="description" style="margin: 0px; padding: 0px;">VLCĐ: Bảy tài sản của bậc Thánh nhân: Trong kinh Tăng chi bộ III (chương Bảy pháp, phẩm Tài sản), Đức Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo, có bảy tài sản này, thế nào là bảy? Tín tài, giới tài, tàm tài, quý tài, văn tài, thí tài và tuệ tài. Ở đây, vị Thánh đệ tử có lòng tin, tin tưởng vào sự giác ngộ của Như Lai, gọi là:</b></b><strong style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px;">Đây là bảy thánh tài (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Ariyadhana</em>), tài sản cao quí hay tài sản của bậc thánh:</strong></div><div style="text-align: justify;"><span style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px;">Tín tài (</span><em style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px;">Saddhādhana</em><span style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px;">), đức tin là tài sản cao quí, lòng tịnh tín nơi tam bảo.</span><span style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px;">Giới tài (</span><em style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px;">Sīladhana</em><span style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px;">), giới hạnh là tài sản cao quí, sự ngăn ngừa điều ác của thân khẩu.</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px;"><br /></span></div><div style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><ol style="margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Tàm tài (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Hiridhana</em>), lòng tàm là tài sản cao quí, sự hổ thẹn đối với điều ác bất thiện pháp.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><br /></p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Quý tài (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Ottappadhana</em>), lòng quý là tài sản cao quí, sự ghê sợ đối với điều ác bất thiện pháp.Văn tài (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Sutadhana</em>), sự đa văn là tài sản cao quí, tức là nghe nhiều học rộng Phật pháp.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><br /></p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Thí tài (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Cāgadhana</em>), xả thí là tài sản cao quí, tức là sự dứt bỏ lòng bỏn xẻn, ưa thích bố thí với hai bàn tay rộng mở.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><br /></p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Tuệ tài (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Paññādhana</em>), trí tuệ là tài sản cao quí, trí hiểu điều lợi ích, hiểu nhân quả, hiểu điều thiện ác, hiểu bản chất danh sắc, chánh kiến.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><br /></p></li></ol><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Bảy pháp này là tài sản cao quí, thù thắng hơn tài sản vật chất vì không bị cướp đoạt, không bị hư hoại; mặt khác thánh tài này làm cho tâm an lạc và cũng tạo được tài sản vật chất. Người nào có bảy thánh tài này được gọi là người giàu có.</p><p style="margin: 0px; padding: 0px;">D.III.163,267; A.IV.5</p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><br /></p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bảy sức mạnh tinh thần (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Bala</em>):</strong></p><ol style="margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Tín lực (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Saddhābala</em>), sức mạnh của niềm tin.</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Tấn lực (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Viriyabala</em>), sức mạnh của sự tinh tấn.</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Tàm lực (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Hiribala</em>), sức mạnh của hổ thẹn tội lỗi.</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Quý lực (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Ottappabala</em>), sức mạnh của tâm ghê sợ tội lỗi.</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Niệm lực (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Satibala</em>), sức mạnh của chánh niệm, tâm ghi nhận bén nhạy.</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Định lực (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Samādhibala</em>), sức mạnh của sự tập trung, tâm vững trú trên đề mục.</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Tuệ lực (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Paññābala</em>), sức mạnh của trí tuệ, sự thẩm sát, sự hiểu biết.</li></ol><p style="margin: 0px; padding: 0px;">A.IV.3</p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><br /></p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bảy hạng thánh nhân <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Ariyapuggala):</em></strong></p><ol style="margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Bậc câu phần giải thoát <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Ubhatobhāgavimutta)</em>, là bậc A-la-hán đắc luôn cả hai phần, tâm giải thoát (thiền hiệp thế) và tuệ giải thoát (tâm siêu thế).</li></ol><ul style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Bậc tuệ giải thoát <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Paññāvimutta)</em>, là bậc A-la-hán mà chỉ đắc tuệ siêu thế, chứ không đắc thiền hiệp thế.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Bậc thân chứng <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Kāyasakkhī)</em>, là bậc thánh hữu học có định quyền mạnh, chứng được thiền và đoạn trừ được một số lậu hoặc.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Bậc kiến đắc (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Diṭṭ</em>hipatta), là bậc thánh hữu học không chứng thiền hiệp thế, dứt trừ được một số lậu hoặc, có tuệ quyền mạnh.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Bậc tín giải (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Saddhāvimutta</em>), là bậc thánh hữu học không chứng thiền hiệp thế, dứt trừ được một số lậu hoặc, có tín quyền mạnh.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Bậc tùy pháp hành <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Dhammānusārī)</em>, là bậc Dự lưu đạo với tuệ làm trưởng, khi đắc Dự lưu quả sẽ là bậc kiến đắc <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Diṭṭhipatta)</em>.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Bậc tùy tín hành <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Saddhānusārī)</em>, là bậc Dự lưu đạo với tín làm trưởng, khi đắc Dự lưu quả sẽ là bậc tín giải (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Saddhāvimutta)</em>.</p></li></ul><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Trong bộ <em style="margin: 0px; padding: 0px;">Paramatthamañjusā (</em>sớ giải<em style="margin: 0px; padding: 0px;"> </em>của bộ <em style="margin: 0px; padding: 0px;">Visuddhimagga) </em>đã giải rằng: bậc sơ đạo tùy pháp hành hay tùy tín hành không chứng thiền hiệp thế, thành bậc kiến đắc hoặc tín giải, nếu đắc A-la-hán, sẽ là bậc tuệ giải thoát. Còn đối với bậc sơ đạo tùy pháp hành hay tùy tín hành có chứng thiền hiệp thế, thành bậc thân chứng, nếu đắc A-la-hán, sẽ là bậc Câu phần giải thoát.</p><p style="margin: 0px; padding: 0px;">D. III. 105, 254: A.I.118: ps.II. 52: pug. 10, 73: Vism. 659</p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><br /></p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bảy hạng hữu học (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Sekkha</em>):</strong></p><ol style="margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Bậc Tu-đà-hườn đạo (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Sotāpattimaggapuggala</em>).</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Bậc Tu-đà-hườn quả (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Sotāpattiphalapuggala</em>).</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Bậc Tư-đà-hàm đạo (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Sakadāgāmimaggapuggala</em>).</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Bậc Tư-đà-hàm quả (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Sakadāgāmiphalapuggala</em>).</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Bậc A-na-hàm đạo (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Anāgāmimaggapuggala</em>).</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Bậc A-na-hàm quả (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Anāgāmiphalapuggala</em>).</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Bậc A-la-hán đạo (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Arahattamaggapuggala</em>).</li></ol><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Gọi là bậc thánh hữu học vì còn phải tiến bậc đến quả vị cao hơn.</p><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Comp.270.</p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><br /></p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Đây là bảy pháp hiền triết, hay pháp bậc chân nhân (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Sappurisadhamma</em>):</strong></p><ol style="margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Tri pháp <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Dhammaññutā)</em>, là biết nhân, biết rõ nguyên nhân sanh ra sự kiện; ở đây, tri pháp cũng có nghĩa là thông suốt giáo lý Phật ngôn gồm chín phần như khế kinh, ứng tụng…</li></ol><ul style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Tri nghĩa <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Atthaññutā), </em>là biết về quả, biết rõ sự kiện do nhân sanh; ở đây, tri nghĩa cũng có nghĩa là thông hiểu lý của pháp, hiểu nghĩa sâu kín của Phật ngôn.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Tri kỷ <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Attaññutā)</em>, tự biết về bản thân, tức là biết rõ mình có khả năng như vậy, sở trường, sở đoản như vậy.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Tri độ <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Mattaññutā)</em>, biết độ lượng trong việc thọ dụng, khi ăn, khi mặc biết tiết độ chừng mực.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Tri thời <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Kālaññutā)</em>, biết phân bố thời gian thích hợp, biết làm việc cho hợp thời đúng lúc; lúc nào nên làm việc nào, lúc nào nên nói lời nào…</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Tri hội <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Parisaññutā)</em>, biết rõ hội chúng chỗ mình đến, biết để ứng xử hợp lý, biết đây là hội chúng quan quyền hoặc đây là hội chúng trí thức hoặc đây là hội chúng thường dân, trong hội chúng này ta nên ngồi, nên nói, nên im lặng như thế nào.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Tri bỉ <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Puggalaparoparaññutā)</em>, biết rõ cá tính trình độ của từng người mà mình tiếp xúc, biết rõ người ấy có khuynh hướng như vậy như thế nào… cần đáp ứng như vầy như thế nào…</p></li></ul><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Đối với vị tỳ-kheo thành tựu bảy pháp hiền triết này được gọi là vị tỳ-kheo khả kính, khả ái, đáng cúng dường.</p><p style="margin: 0px; padding: 0px;">D. III. 252, 283: A.IV.113</p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><br /></p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Đây là bảy giác chi, chi phần của sự giác ngộ (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Bojjhaṅga, sambojjhaṅga</em>):</strong></p><ol style="margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Niệm giác chi <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Satisambojjhaṅga), </em>ghi nhận bén nhạy trong đề mục đang tu tập.</li></ol><ul style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Trạch pháp giác chi <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Dhammavicayasamboj-jhaṅga), </em>trí thẩm sát danh sắc, nhận thức sâu sắc, liễu tri chân thực tính chất pháp là vô thường, khổ v.v…</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Cần giác chi <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Vicayasambojjhaṅga)</em>, sự nỗ lực, sự nhiệt tâm, tinh tấn dõng mãnh không lui sụt việc phát huy chánh niệm tỉnh giác trong đề mục.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Hỷ giác chi <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Pītisambojjhaṅga)</em>, sự hưng phấn, phỉ lạc, tâm hân hoan khi an trú trong đề mục.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Tịnh giác chi <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Passaddhisambojjhaṅga)</em>, sự yên tịnh thân tâm, vắng lặng thân tâm, tức là nội tâm không bị xáo trộn bức xúc.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Định giác chi <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Samādhisambojjhaṅga), </em>sự tập chú trên đề mục, tâm vững trú trên đề mục, không tán loạn, không giao động.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Xả giác chi <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Upekkhāsambojjhaṅga)</em>, sự dung hòa của tâm, trạng thái an nhiên bình thản đối với hiện trạng sanh diệt của pháp hữu vi, không bồn chồn lo âu.</p></li></ul><p style="margin: 0px; padding: 0px;">D.III. 251, 282; Vbh. 277</p><p style="margin: 0px; padding: 0px;">.</p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bảy pháp cần tác chứng (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Sacchikātabbā dhammā</em>):</strong></p><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Đây là bảy sức mạnh bậc lậu tận (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Khīnāsavabala</em>), sức mạnh tinh thần của vị A-la-hán; vị A-la-hán có nội tâm dũng mãnh như ngưu vương bởi nhờ thành tựu bảy sức mạnh này; vị tỳ-kheo lậu tận biết rõ sự diệt tận các lậu hoặc cũng nhờ các sức mạnh này.</p><ol style="margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Chư hành được vị ấy thấy rõ như chân bằng chánh trí, rằng là vô thường (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Aniccato sabbe saṅ-khārā yathābhūtaṃ sammappaññāya sudiṭṭhā honti).</em></li></ol><ul style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Các dục được vị ấy thấy rõ như chân bằng chánh trí, rằng là nguy hiểm ví như than hừng v.v… (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Aṅgārakāsūpamādayo kāmā yathābhūtaṃ sammap-paññāya sandiṭṭhā honti).</em></p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Tâm của vị ấy hướng viễn ly, thiên về viễn ly, khuynh theo viễn ly, trú trong viễn ly, hoan hỷ xuất ly, đoạn tận hoàn toàn các pháp do lậu duyên khởi (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Vivekaninnaṃ cittaṃ hoti vivekapoṇaṃ vivekapab-bhāraṃ vivekaṭṭhaṃ nekkhammābhirantaṃ vyanti-bhūtaṃ sabbaso āsavaṭṭhāniyehi dhammehi)</em>.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Bốn niệm xứ đã được vị ấy khéo tu tập phát triển (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Cattāro satipaṭṭhānā bhāvitā honti subhāvitā</em>).</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Năm quyền đã được vị ấy khéo tu tập phát triển (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Pañcindriyāni bhāvitāni honti subhāvitāni).</em></p></li></ul><p style="margin: 0px; padding: 0px;">6.<em style="margin: 0px; padding: 0px;"> </em>Bảy giác chi đã được vị ấy khéo tu tập phát triển (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Satta bojjhaṅgā bhāvitā honti subhāvitā).</em></p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><em style="margin: 0px; padding: 0px;">7. </em>Thánh đạo tám chi đã được vị ấy khéo tu tập phát triển (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Ariyo atthaṅgiko maggo bhāvito hoti subhāvito).</em></p><p style="margin: 0px; padding: 0px;">D.III.283.</p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><br /></p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bảy pháp tưởng <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Saññā):</em></strong></p><ol style="margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Tưởng bất tịnh <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Asubhasaññā),</em> suy tưởng về thân thể trược.</li></ol><ul style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Tưởng sự chết (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Maraṇasaññā</em>), suy tưởng về tính chất mong manh của mạng sống.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Tưởng nhờm gớm vật thực (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Āhārare paṭikkulasaññā</em>), suy tưởng về sự bẩn thỉu của vật thực mà người ta làm ra.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Tưởng bất hỷ cõi đời (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Sabbaloke</em> <em style="margin: 0px; padding: 0px;">anabhiratasaññā</em>), suy tưởng về sự tẻ nhạt đơn điệu trong cuộc sống.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Tưởng vô thường <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Aniccasaññā), </em>suy tưởng về sự tạm bợ của danh sắc, sanh rồi diệt, có rồi không.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Tưởng khổ vô thường <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Anicce dukkhasaññā), </em>suy xét về trạng thái bức xúc khó chịu của hiện tượng vô thường.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Tưởng vô ngã trong khổ <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Dukkhe anattasaññā), </em>suy xét về sự bất lực trong sự khổ, không thể theo ý muốn được.</p></li></ul><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Bảy pháp tưởng này nếu được tu tập thuần thục viên mãn sẽ đạt đến lợi ích lớn, chứng ngộ níp-bàn.</p><p style="margin: 0px; padding: 0px;">A.IV.46</p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><br /></p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bảy pháp môn đoạn trừ lậu hoặc (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Āsavakkhayadhamma</em>):</strong></p><ol style="margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Đoạn trừ do tri kiến (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Dassanā pahātabbā</em>), tức là biết tác ý pháp cần tác ý, và không tác ý pháp không cần tác ý, nhờ vậy mà các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi, các lậu hoặc đã sanh bị trừ diệt.</li></ol><ul style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Đoạn trừ do thu thúc (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Saṃvarā pahātabbā</em>), tức là thúc liễm sáu căn như mắt, tai… nhờ vậy các lậu hoặc không có.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Đoạn trừ do thọ dụng (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Paṭisevanā pahātabbā</em>), tức là khi thọ dụng tứ sự có chơn chánh giác sát, khéo quán tưởng, nhờ vậy các lậu hoặc không khởi lên hoặc không còn nữa.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Đoạn trừ do kham nhẫn (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Adhivāsanā pahā tabbā</em>), tức là biết chịu đựng nhẫn nại với nghịch cảnh, nhờ vậy các lậu hoặc không khởi lên hoặc không còn nữa.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Đoạn trừ do né tránh (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Parivajjanā pahātabbā</em>), tức là biết thận trọng, tránh né mối hiểm họa có thể sanh phiền não như bạn xấu, thú dữ, chỗ lai vảng không thích hợp… nhờ vậy các lậu hoặc không khởi lên hoặc không còn nữa.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Đoạn trừ do dẹp bỏ (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Vinodanā pahātabbā</em>), tức là biết từ bỏ, từ khước, không chấp nhận các tà niệm sanh khởi như dục tầm, sân tầm và hại tầm, nhờ vậy các lậu hoặc không khởi lên hoặc không còn nữa.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Đoạn trừ do tu tập (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Bhāvanā pahātabbā</em>), tức là khéo tu tập bảy giác chi: niệm, trạch pháp, cần, hỷ, tịnh, định và xả, dựa trên viễn ly vô nhiễm, đoạn diệt, phóng thích. Nhờ tu tập như vậy các lậu hoặc không có hoặc không còn nữa.</p></li></ul><p style="margin: 0px; padding: 0px;">M.I.7-11</p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><br /></p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bảy nhóm pháp đảng giác, bồ đề phần <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Bodhipakkhiyadhamma)</em>, pháp môn trợ giúp giác ngộ:</strong></p><ol style="margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Tứ niệm xứ (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Satipaṭṭhāna</em>), xem [165]</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Tứ chánh cần (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Sammappadhāna</em>), xem [219]</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Tứ như ý túc (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Iddhipāda</em>), xem [217]</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Ngũ quyền (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Indriya</em>), xem [487]</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Ngũ lực (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Bala</em>), xem [276]</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Thất giác chi (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Bojjhaṅga</em>), xem [371]</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Bát chi đạo (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Ariyamagga</em>), xem [400]</li></ol><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Vbh. 249.</p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><br /></p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bảy thanh tịnh pháp (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Visuddhi</em>), bảy tịnh pháp đưa đến giải thoát:</strong></p><ol style="margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Giới tịnh (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Sīlavisuddhi</em>), sự thanh tịnh về giới, sự nghiêm trì giới luật, biết sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, làm cho giới không bị lấm nhơ tỳ vết. Giới đây là chỉ cho bốn thanh tịnh giới (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Parisuddhisīla</em>).</li></ol><ul style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Tâm tịnh (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Cittavisuddhi)</em>, sự thanh tịnh về tăng thượng tâm, tức là tâm định trong các thiền chứng; tâm tịnh thuộc về tám bậc thiền đáo đại, kể cả cận định (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Upacārasamādhi</em>), khi tiến hành thiền chỉ (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Samatha</em>).</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Kiến tịnh (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Diṭṭhivisuddhi)</em>, sự thanh tịnh về tri kiến, đây chính là tuệ quán thứ nhất trong 16 tuệ minh sát “Tuệ phân biệt danh sắc”. Kiến tịnh này loại trừ ngã chấp thủ.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Đoạn nghi tịnh (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Kaṅkhāvitaraṇavisuddhi)</em>, sự thanh tịnh bằng tuệ đoạn trừ nghi hoặc, đây chính là hai tuệ quán: “Tuệ hiểm duyên danh sắc” và “Tuệ tri phổ cập tướng”.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Đạo phi đạo tri kiến tịnh (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Maggāmaggañā-ṇadassanavisuddhi</em>), sự thanh tịnh tri kiến ở giai đoạn tuệ quán, từ “Tuệ sanh diệt” cho đến “Tuệ hành xả”. Trong giai đoạn này có thể vì tuệ quán còn yếu nên dễ sanh khởi tùy phiền não và ngộ nhận đạo lộ giải thoát, khó xác định hư thực, nên gọi là đạo phi đạo tri kiến.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Hành lộ tri kiến tịnh (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Paṭipadāñāṇadassa-navisuddhi</em>), sự thanh tịnh tri kiến trong giai đoạn tuệ quán đã già dặn, cũng kể từ “Tuệ sanh diệt” trở đi, nhưng thêm hai tuệ nữa là “Tuệ thuận thứ” và “Tuệ chuyển tộc” . Ở giai đoạn này xác định rõ về đạo lộ giải thoát.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Tri kiến tịnh (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Ñāṇadassanavisuddhi</em>), sự thanh tịnh tri kiến do thánh trí, tức là tuệ giác ngộ, “Tuệ đạo”, “Tuệ quả” giai đoạn này là sự thanh tịnh của bậc thánh vì thánh trí đã phát sanh, và đây là đỉnh cao của sự thanh tịnh, đỉnh cao của tam học (Giới-định-tuệ).</p></li></ul><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Bảy sự thanh tịnh này là pháp tu tập chuyển tiếp thứ lớp để đạt đến níp-bàn, cũng ví như bảy trạm xe chuyển tiếp để cho người khách hành trình tuần tự đến mục tiêu.</p><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Xem thêm mười sáu tuệ quán [484], và chín tuệ quán [438].</p><p style="margin: 0px; padding: 0px;">M.I.149; Vism.1.710.</p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><br /></p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bảy pháp thuộc phần thù thắng <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Visesabhāgiyā dhammā</em>):</strong></p><ol style="margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Có đức tin (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Saddho hoti</em>)</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Có lòng tàm (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Hirimā hoti</em>)</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Có lòng quý (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Ottappī</em> <em style="margin: 0px; padding: 0px;">hoti</em>)</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Nghe nhiều học rộng (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Bahussuto hoti</em>)</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Chuyên cần (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Āraddhaviriyo hoti)</em></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Niệm vững trú (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Upaṭṭhitasati hoti</em>)</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Có trí tuệ (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Paññavā hoti</em>).</li></ol><p style="margin: 0px; padding: 0px;">D.III.282.</p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><br /></p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bảy nhân tăng trưởng danh tiếng (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Yasābhivaḍḍhana</em>):</strong></p><ol style="margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Nỗ lực (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Uṭṭhānavā</em>), siêng năng.</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Ức niệm (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Satimā</em>), có chủ tâm ghi nhớ.</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Tịnh nghiệp (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Sucikammo</em>), có thân khẩu ý trong sạch, không lỗi lầm.</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Cẩn hành (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Nisammakārī</em>), làm việc thận trọng.</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Điều phục (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Saññato</em>), biết tự khắc chế bản thân.</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Sống theo pháp (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Dhammajīvī</em>), nuôi mạng lương thiện.</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Không dể duôi (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Appamatto</em>), không buông lung phóng đãng.</li></ol><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><span style="color: #7f0000; font-family: "vu times"; margin: 0px; padding: 0px;"><em style="margin: 0px; padding: 0px;">Dhp.24</em></span><span style="font-family: "vu times"; margin: 0px; padding: 0px;">.</span><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /> </p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bảy điều kiện thích hợp<em style="margin: 0px; padding: 0px;"> (Sappāya) </em>cho vị hành giả tiến tu thiền định</strong>:</p><ol style="margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Trú xứ thích hợp (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Āvāsasappāya), </em>là có chỗ<em style="margin: 0px; padding: 0px;"> </em>ở vừa ý, yên tĩnh, khí hậu điều hòa.</li></ol><ul style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Hành xứ thích hợp (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Gocarasappāya)</em>, là chỗ sinh sống dễ dàng, tìm vật thực không khó khăn; chỗ thuận tiện đi khất thực, không quá xa cũng không quá gần xóm làng.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Đàm luận thích hợp (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Bhassasappāya), </em>là nói những câu chuyện về sự viễn ly, thiểu dục, tri túc, câu chuyện về giới – định – tuệ… hoặc nói chuyện cần thiết, vừa phải, không mất thời gian.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Người thích hợp (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Puggalasappāya</em>), là gần được những bạn đồng tu có cùng khuynh hướng tu tập, đủ khả năng tu tập, thông suốt pháp học pháp hành.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Thực phẩm thích hợp (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Bhojanasappāya),</em> là ăn những thức ăn dễ tiêu hóa, hợp với thể tạng, không gây bệnh.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Thời tiết thích hợp (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Utusappāya)</em>, là lúc có thời tiết dễ chịu, không quá nóng, không quá lạnh.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Oai nghi thích hợp (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Iriyāpathasappāya), </em>là sự hoạt động thân thể đi, đứng, nằm, ngồi điều hòa, thoải mái, thích nghi.</p></li></ul><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Vism.127; Vin.A.II.429; MA.II.911.</p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><br /></p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bảy pháp cần biến tri <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Pariññeyyā dhammā):</em></strong></p><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Đây là bảy thức trú (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Viññāṇaṭhiti</em>):</p><ol style="margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Có loài chúng sanh thân dị tưởng dị <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Sattā nānattakāyanānattasaññino), </em>như nhân loại và một số chư thiên dục giới. Các chúng sanh này thân tướng khác nhau và tâm hữu phần cũng khác nhau.</li></ol><ul style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Có loài chúng sanh thân dị tưởng đồng <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Sattā nānattakāy’ ekattasaññino), </em>như phạm chúng thiên sơ thiền. Các phạm thiên cõi này có thân tướng khác nhau nhưng đồng một tâm hữu phần.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Có loài chúng sanh thân đồng tưởng dị <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Sattā ekattakāyanānattasaññino), </em>như chúng sanh quang âm thiên cõi nhị thiền. Các phạm thiên cõi này có thân tướng giống nhau nhưng tâm hữu phần khác nhau.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Có loài chúng sanh thân đồng tưởng đồng <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Sattā ekattakāyekattasaññino), </em>như chúng sanh biến tịnh thiên. Các phạm thiên cõi này có thân tướng giống nhau và tâm hữu phần cũng giống nhau.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Có loài hữu tình sanh trú không vô biên xứ <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Sattā ākāsānañcāyatanūpagā), </em>tức là phạm thiên cõi vô sắc không vô biên xứ.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Có loài hữu tình sanh trú thức vô biên xứ<em style="margin: 0px; padding: 0px;"> (Sattā viññāṇañcāyatanūpagā), </em>tức là phạm thiên cõi vô sắc thức vô biên xứ.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Có loài hữu tình sanh trú vô sở hữu xứ<em style="margin: 0px; padding: 0px;"> (Sattā ākiñcaññāyatanūpagā), </em>tức là phạm thiên cõi vô sắc vô sở hữu xứ.</p></li></ul><p style="margin: 0px; padding: 0px;">D. III. 253: A.IV.39</p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><br /></p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bảy pháp cần thắng tri <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Abhiññeyyā dhammā)</em>:</strong></p><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Đây là bảy đức tiêu biểu <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Niddasavatthu)</em>, nghĩa là đặc điểm mà vị tỳ-kheo thành tựu được gọi là “Vị tỳ-kheo tiêu biểu” (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Niddasabhikkhu</em>). Trong pháp này, Đức Phật gọi vị tỳ-kheo tiêu biểu là vị thành tựu bảy đức tính này chớ không nói theo số hạ lạp.</p><ol style="margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Khát vọng và thiết tha hành trì học pháp <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Sikkhāsamādāne tibbacchando avigatapemo)</em>, tức là hành trì tam học giới, định, tuệ.</li></ol><ul style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Khát vọng và thiết tha thẩm nghiệm pháp <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Dhammanisantiyā tibbacchando avigatapemo)</em>, tức là quán sát, minh sát danh và sắc.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Khát vọng và thiết tha điều phục dục cầu (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Icchāvinaye tibbacchando avigatapemo</em>), là điều phục ái tham – <em style="margin: 0px; padding: 0px;">taṇhā.</em></p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Khát vọng và thiết tha thiền tịnh <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Paṭisallāne tibbacchando avigatapemo)</em>, là sống độc cư – <em style="margin: 0px; padding: 0px;">ekī-bhāva</em>.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Khát vọng và thiết tha sống chuyên cần <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Viriyārambhe tibbacchando avigatapemo),</em> là tinh tấn cả thân và tâm – <em style="margin: 0px; padding: 0px;">kāyika cetasikaviriya</em>.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Khát vọng và thiết tha cẩn niệm <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Satinepak-ke tibbacchando avigatapemo), </em>tức là ức niệm sáng suốt – <em style="margin: 0px; padding: 0px;">sati ca nepakkabhāva ca</em>.</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Khát vọng và thiết tha thể nhập tri kiến <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Diṭṭhipaṭivedhe tibbacchando avigatapemo), </em>tức là kiến đạo, tri kiến thuộc thánh đạo – <em style="margin: 0px; padding: 0px;">maggadassana</em>.</p></li></ul><p style="margin: 0px; padding: 0px;">D. III. 252, 283; A.IV.34.</p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><br /></p><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Bảy pháp cần đoạn trừ <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Pahātabbā-dhammā):</em></strong></p><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Đây là bảy pháp tiềm miên (<em style="margin: 0px; padding: 0px;">Anusaya</em>), pháp phiền não ngủ ngầm:</p><ol style="margin: 0px; padding: 0px;"><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;">Tham dục tiềm miên <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Kāmarāgānusaya), </em>lòng tham ái cảnh dục, là phiền não ngủ ngầm, khi có cảnh thích hợp thì bộc phát do đã có tiềm tàng ái dục từ quá khứ. Cần phải hiểu như thế đối với các pháp tiềm miên khác.</li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Phẫn nộ tiềm miên <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Paṭighānusaya), </em>lòng sân hận, là phiền não ngủ ngầm…</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Tà kiến tiềm miên <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Diṭṭhānusaya), </em>kiến chấp sai lầm, là phiền não ngủ ngầm…</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Hoài nghi tiềm miên <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Vicikicchānusaya), </em>tâm hoang mang ngờ vực, là thứ phiền não ngủ ngầm…</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Kiêu mạn tiềm miên <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Mānānusaya), </em>lòng kiêu căng tự đắc,<em style="margin: 0px; padding: 0px;"> </em>là thứ phiền não ngủ ngầm…</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Tham hữu tiềm miên <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Bhavarāgānusaya), </em>tâm ái chấp sanh hữu, là thứ phiền não ngủ ngầm…</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;">Vô minh tiềm miên <em style="margin: 0px; padding: 0px;">(Avijjānusaya), </em>tính mê muội, là thứ phiền não ngủ ngầm…</p></li><li style="list-style: none; margin: 0px; padding: 0px;"><p style="margin: 0px; padding: 0px;"><br /></p></li></ol><p style="margin: 0px; padding: 0px;">D.III.254, 282; A.IV.8; Vbh.383<br style="margin: 0px; padding: 0px;" />KHO TÀNG PHÁP HỌC<br style="margin: 0px; padding: 0px;" />Tỳ Khưu Giác Giới biên dịch</p></div>voluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8726509563833692641.post-64778057652618547002021-05-07T07:35:00.014+07:002022-06-07T09:06:16.499+07:00Tính khí của bạn chính là phong thủy cuộc đời bạn<p style="text-align: justify;"><b><span style="font-size: medium;"></span></b></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><b><span style="font-size: medium;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjMddnHtYA5J2FMhFkLjZyV0RDLkOWnHVeDhk4JtpUaHGHyLj_08oXc_RuITXyAvIHbtYJEOFgGln3BezIeYSBPZRk5JjQ7ZAfeHh9hWtP5DYJxkRfKE0hg-shv8yZyeEMo4nFe4ys6_GQyOhQBq7CTD4-FVbR1ydR9ppMzXXQKZ2WLpy3OXXnt6mgm4Q/s640/ban-tay-phat.jpg" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="640" data-original-width="480" height="320" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjMddnHtYA5J2FMhFkLjZyV0RDLkOWnHVeDhk4JtpUaHGHyLj_08oXc_RuITXyAvIHbtYJEOFgGln3BezIeYSBPZRk5JjQ7ZAfeHh9hWtP5DYJxkRfKE0hg-shv8yZyeEMo4nFe4ys6_GQyOhQBq7CTD4-FVbR1ydR9ppMzXXQKZ2WLpy3OXXnt6mgm4Q/s320/ban-tay-phat.jpg" width="240" /></a></span></b></div><b><span style="font-size: medium;">VLCĐ: Nói chuyện tử tế với người nhà, là bổn phận của một người. Chúng ta luôn rất lịch sự với người ngoài, nhưng lại hay tức giận với người thân, đó là bởi người nhà quan tâm bạn, luôn bao dung bạn dù bạn có đối xử với họ ra sao. Người tính khí tốt, miệng có đức ắt có phúc, người tính khí xấu, miệng thiếu đức ắt không có phúc.Tính khí của bạn chính là phong thủy cuộc đời bạn.</span></b><p></p><p style="text-align: justify;"><span style="font-size: medium;"><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;"><b>1./ Tính khí của bạn, tiềm ẩn tài vận của bạn: </b></span><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;">Khu dân cư vừa mở thêm một siêu thị mới. </span><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;">Thời gian đầu, vì tiện lợi nên mỗi ngày mở cửa ra đều đông kín người. </span><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;">Nhưng lâu dần, tôi phát hiện ra, lượng người tới ngày một ít hơn. </span><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;">Tôi nói chuyện này với mấy người hàng xóm, họ ngay lập tức ca thán.</span></span></p><p style="text-align: justify;"><span style="font-size: medium;"><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;">Trời lạnh, một chị hàng xóm đi siêu thị mua bánh mì và mấy đồ ăn vặt khác để ăn sáng ngày hôm sau, lúc trả tiền tại quày, đồ ăn vặt không may rơi hết xuống đất, chị ấy vội vàng nhặt lên, miệng cũng xin lỗi rối rít. </span><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;">Nhưng, ông chủ lại mặt nặng mày nhẹ: "Bà nhặt nhanh lên đi!."</span></span></p><p style="text-align: justify;"><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;">Câu nói của ông chủ khiến chị ấy dù tâm trạng có muốn tốt cũng không thể tốt lên được. Đây không phải chuyện hiếm. Ông chủ siêu thị rất thường xuyên mặt nặng mày nhẹ với người tới mua hàng, dù đồ của siêu thị có nhiều tới đâu, có gần tới đâu, thì cũng chẳng ai muốn vừa mua hàng vừa phải nhìn cái khuôn mặt khó chịu đó cả.</span></span></p><p style="text-align: justify;"><span style="font-size: medium;"><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;">Có người từng nói: </span><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;">"Điều tồi tệ nhất trên thế gian này, chính là một khuôn mặt tức giận; chuyện đau lòng nhất trên thế gian này là chưng ra khuôn mặt tức giận với người bên cạnh, nó còn khó chịu hơn cả bị đánh mắng gấp ngàn lần."</span></span></p><p style="text-align: justify;"><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;">Sự lạnh lùng, thờ ơ và tính khí khó chịu của bạn sẽ đẩy mọi người ra xa bạn hơn, sẽ đẩy cánh tay định đưa ra giúp đỡ bạn ra xa hơn, đẩy sự may mắn vốn dĩ sẽ thuộc về bạn ra xa hơn.</span></span></p><p style="text-align: justify;"><b style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;">2./ Tính khí của bạn, tiềm ẩn hạnh phúc và khổ đau của bạn</span></b></p><p style="text-align: justify;"><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;">Tâm lý học có một hiệu ứng nổi tiếng gọi là "Hiệu ứng đá mèo" (kick the cat).</span></span></p><p style="text-align: justify;"><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;">Một người cha ở công ty bị phê bình, về nhà nhìn thấy con trai đang chơi trên ghế sofa, bỗng nhiên "phát hỏa" mắng cậu con trai. Cậu con trai sau khi bị mắng tức giận chạy ra ngoài, vì bỗng dưng bị "giận cá chém thớt", là không có chỗ để trút, vừa hay nhìn thấy con mèo dưới chân, cậu bé liền đá cho con mèo một phát, con mèo rất đau, bỏ chạy ra phố. Lúc này vừa hay có một chiếc xe chạy tới, vì muốn tránh con mèo nên đã đâm vào cậu bé.</span></span></p><p style="text-align: justify;"><span style="font-size: medium;"><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;">Vạn sự đều có nhân quả, cảm xúc cũng sẽ lan truyền. </span><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;">Chú hàng xóm, có một đoạn thời gian luôn mang cục tức ở công ty về nhà trút lên vợ con, người vợ mở cửa cho chồng còn chưa kịp nói gì đã bị chồng tức giận mắng mỏ cho một trận.</span></span></p><p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Người vợ vừa tan làm về đã tất bật cơm nước, lại vô
duyên vô cớ bị mắng nên cũng rất bực mình, việc nhà không muốn làm nữa, tự dưng
cũng bực mình lên con cái. Rồi cậu con trai nhìn bố mẹ tâm trạng không tốt, tâm
trạng cũng không tốt theo, áp lực, bài tập cũng không muốn làm, không muốn ở
trong nhà. Đợt vừa rồi kết quả thi của cậu con trai vô cùng kém, thụt lùi đi
rất nhiều.<o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;"></span></p><blockquote>Tức giận là bản năng, nhưng kiềm chế được cơn tức
giận là bản lĩnh. Khi bạn muốn "bùng nổ", hãy nhịn 10 giây. Mỗi một
lần bạn tức giận, là một lần bạn găm một cái đinh lên người thân của bạn, lời
xin lỗi của bạn sau đó giống như rút đinh ra, nhưng, vẫn để lại đó một cái lỗ,
thời gian có thể chữa lành tất cả, nhưng đừng quên, vết sẹo sẽ vẫn còn đó.</blockquote><o:p></o:p><p></p><p style="text-align: justify;">
</p><p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 12.0pt;">Chú hàng xóm sau đó đã tự vấn lại bản thân, mấy hôm
nay lúc về nhà đều trông thấy chú ngồi trong xe một lúc, tôi hỏi chú sao không
lên nhà, chú nói chú muốn yên tĩnh một lúc, kiềm chế lại cảm xúc của bản thân,
về nhà không tùy tiện trút giận lên vợ con nữa. Hôm qua thấy cậu con trai cười
rất vui vẻ, một cậu bé đi học với một tâm trạng vui vẻ, thành tích còn có thể
không tốt ư?<o:p></o:p></span></p><p style="text-align: justify;"><span style="font-size: medium;"><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;"></span></span></p><span style="font-size: medium;"><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;"></span></span><p></p><p style="text-align: justify;"><span style="font-size: medium;"><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;">Nói chuyện tử tế với người nhà, là bổn phận của một người. Chúng ta luôn rất lịch sự với người ngoài, nhưng lại hay tức giận với người thân, đó là bởi người nhà quan tâm bạn, luôn bao dung bạn dù bạn có đối xử với họ ra sao.</span><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;">Nhưng, đợi tới khi sự nóng nảy của bạn khiến người thân cũng không thể chấp nhận nổi nữa, vậy thì tất cả những gì bạn có lúc này sẽ chỉ còn là sự cô độc...</span></span></p><p style="text-align: justify;"><span style="font-size: medium;"><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;">Người tính khí tốt, miệng có đức ắt có phúc; </span><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;">người tính khí xấu, miệng thiếu đức ắt không có phúc.</span></span></p><p style="text-align: justify;"><span style="font-size: medium;"><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;">Tính khí của bạn chính là phong thủy cuộc đời bạn, </span><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;">là sự phù hộ cho cả đời may mắn.</span></span></p><p style="text-align: justify;"><i style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;">Thiện Tri Thức
</span></i><i style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: medium;">Namo Buddhaya</span></i></p>voluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8726509563833692641.post-49783906162088012592021-03-22T07:29:00.002+07:002022-06-10T08:53:52.824+07:00Tụng Kinh đám chết<p></p><div style="text-align: justify;"><a href="https://www.blogger.com/blog/post/edit/8726509563833692641/4978390616208801259#" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhIIYGDwznOGEDib3wwRK6QuzruehdqeSXDchKmmrebxOqtc2AcP0YWU3omJHe1NWRRVkzufTP51q2Jj23wn3orDnhr_9dHM8EBh63pJHRTpNWz2YH7d_rSaehAd7Fusk3xM7cAgZV4N6QKAAZqZSOYyMPjLgy6JU7_qPYHFmm_TG1oWLtpN8p2jzQTRA/s320/Nha-x%C6%B0a.jpg" /></a><b>VLCĐ: Môt ngày nọ một thanh niên đến hỏi đức Phật: "Kính bạch Tôn giả, cha con vừa chết. Xin đến cầu nguyện cho ông. Vực hồn ông lên để ông có thể lên thiên đàng. Các thầy đạo Bà la môn có làm những nghi thức như vậy nhưng ngài là Phật có nhiều quyền năng hơn họ. Nếu ngài chịu làm thì chắc chắn linh hồn cha con sẽ bay thẳng lên thiên đàng."</b></div><div style="text-align: justify;">---------------</div><div style="text-align: justify;"><i>Bài sưu tầm:</i></div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Là một thầy tu đôi khi tôi được mời đến tụng kinh đám chết. Tôi thấy thương xót cho những người có tang nhưng đôi khi tôi cảm thấy vô vọng vì có quá nhiều ngộ nhận về vai trò của người thầy tu trong việc tụng kinh đám chết.</div><div style="text-align: justify;">Hôm nọ có một cô gái đến gặp tôi. Cha cô vừa chết sáng hôm đó. Cô van nài tôi: "Xin thầy đến tụng kinh cầu nguyện. Xin mở con đường cho cha con."</div><div style="text-align: justify;">Tôi nhìn cô với tất cả từ tâm mà tôi có thể có được. Tôi có thể cảm nhận được sự hoang mang và đau khổ của cô. Tôi nghĩ cô chừng khoảng 20 tuổi, và là một người con hiếu thảo. Trong tim tôi tôi tự nhủ: "Chao ôi, làm sao mà mình có thể mở đường cho ai đây. Mình phải vẽ trên không cái lộ trình tưởng tượng nào cho cái trí tưởng tượng của cô ấy đi theo đây? Làm sao mình có thể nói với cô gái tội nghiệp đang trong tình trạng tang chế bối rối này biết rằng không có cách nào giống như cô nghĩ ra như vậy."</div><div style="text-align: justify;">Đức Phật đã từng bị đặt trong trạng huống này một lần, và ngài đã trả lời như thế nào?</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Môt ngày nọ một thanh niên đến hỏi đức Phật: "Kính bạch Tôn giả, cha con vừa chết. Xin đến cầu nguyện cho ông. Vực hồn ông lên để ông có thể lên thiên đàng. Các thầy đạo Bà la môn có làm những nghi thức như vậy nhưng ngài là Phật có nhiều quyền năng hơn họ. Nếu ngài chịu làm thì chắc chắn linh hồn cha con sẽ bay thẳng lên thiên đàng."</div><div style="text-align: justify;">Đức Phật trả lời: "Được rồi. Con đi đến chợ mua dùm ta hai chậu đất nung và ít bơ."</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Chàng thanh niên mừng rỡ vì đức Phật đã chịu làm bùa phép để cứu linh hồn cha mình. Anh lật đật xuống phố mua những vật được yêu cầu.</div><div style="text-align: justify;">Rồi đức Phật chỉ dẫn: "Bỏ bơ vào một chậu và bỏ đá vào chậu kia. Xong ném cả hai chậu xuống nước."</div><div style="text-align: justify;">Chàng thanh niên làm theo, và cả hai chậu đều chìm xuồng đáy hồ.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Rồi đức Phật nói tiếp: "Bây giờ lấy một cây gậy và chọc vào hai chậu ở đáy hồ." Chàng thanh niên làm theo. Hai cái chậu bị vỡ và chất bơ vì nhẹ nên nổi lên mặt nước trong khi đá nặng nên vẫn nằm dưới đáy hồ.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Đức Phật lúc đó nói: "Giờ lẹ lên, đi mời hết các thầy tu đi. Nói với họ đến đây tụng sao cho bơ chìm xuống đáy và đá nổi lên trên."</div><div style="text-align: justify;">Chàng thanh niên nhìn đức Phật sửng sốt. Anh nói: "Kính bạch Tôn giả, bộ ngài dỡn sao. Dĩ nhiên không ai tin bơ nhẹ thì chìm mà đá nặng lại nổi. Điều đó trái ngược với luật tạo hóa."</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Đức Phật cười và đáp: "Vậy con không thấy sao, nếu cha con sống một cuộc đời tốt lành, thì các việc làm của ông sẽ nhẹ như bơ, do đó bất kể tình huống nào cha con cũng sẽ thăng lên thiên đàng. Không ai có thể ngăn cản được điều đó, ngay cả chính ta. Vì không ai có thể cưỡng lại luật nghiệp báo. Nhưng nếu cha con sống một cuộc đời xấu xa, thì cũng như những hòn đá nặng kia, ông sẽ chìm xuống địa ngục. Không có số lượng cầu nguyện nào của mọi giáo sĩ quyền năng trên thế gian này có thể làm ngược điều đó."</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Chàng thanh niên bấy giờ đã hiểu. Anh ta sửa đổi cái quan niệm sai lầm của mình và không còn đi xin xỏ một việc không thể được.</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;">Câu chuyện ví von của đức Phật đã làm sáng tỏ một điều:</div><div style="text-align: justify;"><br /></div><div style="text-align: justify;"><blockquote>Không ai có thể cứu chúng ta, nhất là sau khi chúng ta đã chết. Theo luật nghiệp, chúng ta là sở hữu chủ của mọi việc làm của chúng ta, là người thừa kế mọi việc làm của chúng ta. Hành động của chúng ta là vật sở hữu thật sự của chúng ta. Chúng là chỗ nương tựa và quyến thuộc thật sự của chúng ta. Chúng là nơi sinh trưởng chúng ta. Khi chết chúng ta không đem theo đuợc một xu con nào hay một của cải vật chất gì. Ngay cả một trong những người thân yêu nhất của chúng ta cũng không thể đi theo. Cũng như chúng ta đã đến một mình do nghiệp của mình, chúng ta phải ra đi một mình. Nếu chúng ta hiểu rõ luật nghiệp thì chúng ta sẽ cảm nhận được tầm quan trọng phải sống một cuộc đời cao đẹp khi chúng ta còn sống. Vì nếu chờ đến khi chết thì quá trễ, không có gì có thể thay đổi được nữa.</blockquote></div>voluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8726509563833692641.post-45442736031579496672021-03-15T10:39:00.003+07:002022-06-10T08:50:54.394+07:00Suy ngẫm về khổ đau lớn nhất của đời người<p><b itemprop="description" style="color: #333333; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px;"></b></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><b itemprop="description" style="color: #333333; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEix8VjgJF1oKrWW8Eqg_KocxqZmXKYveeady5MW_i367u0dl9UxtXxzOlFnKY0-kbpWjv1S1GkgoXyiimYLqHKTiIoiH9kwd1zC_NK0jnfmNFz6-KvenaPLghqE6C8eD1YsjpcL3XGPxL57MPlqpxiIOQcH2pWtPLAkUTey8-qsCF-8GIUesrWWaubipw/s390/kho-dau.jpg" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em; text-align: justify;"><img border="0" data-original-height="250" data-original-width="390" height="205" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEix8VjgJF1oKrWW8Eqg_KocxqZmXKYveeady5MW_i367u0dl9UxtXxzOlFnKY0-kbpWjv1S1GkgoXyiimYLqHKTiIoiH9kwd1zC_NK0jnfmNFz6-KvenaPLghqE6C8eD1YsjpcL3XGPxL57MPlqpxiIOQcH2pWtPLAkUTey8-qsCF-8GIUesrWWaubipw/s320/kho-dau.jpg" width="320" /></a></b></div><div style="text-align: justify;"><span itemprop="description" style="font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px;"><span itemprop="description" style="margin: 0px; padding: 0px;"><span style="color: #333333;"><b>VLCĐ: Suy ngẫm về khổ đau lớn nhất của đời người: Đức Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo! Các thầy bàn luận chưa đến chỗ cùng tột ý nghĩa của khổ đau. Khổ đau trong cuộc đời không gì hơn sự hiện hữu của thân này. Tất cả những nỗi khổ đau đói khát, nóng lạnh, sân giận, sợ hãi, sắc dục, tai họa… đều bắt nguồn từ thân này!”(Kinh Pháp cú thí dụ).<br /></b></span></span></span><span style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px;"><span style="color: #333333;"><b><br /></b></span>Trong đời sống thường nhật, đôi lúc ngồi suy niệm một mình, chúng ta cũng thường thắc mắc tự hỏi: “Khổ đau lớn nhất của đời người đến từ đâu?”.</span></div><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Và có lẽ, sẽ có nhiều câu trả lời, đại loại là do tham dục, do sân giận, do đói khát, do bệnh tật hay do sự sợ hãi v.v…</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Những lời giải đáp tùy theo mỗi hoàn cảnh và sự nhận thức của mỗi người. Nhưng tất cả những lời giải đáp ấy chưa phải là nguyên nhân cốt lõi sau cùng của nỗi khổ đau lớn nhất mà kiếp người phải gánh lấy.<br style="margin: 0px; padding: 0px;" /> </p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Trong Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều đã từng than rằng:<strong style="margin: 0px; padding: 0px;"> “Nghĩ thân phù thế mà đau / Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”.</strong><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /> </p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Câu hỏi này (và cả những câu trả lời) không có gì lạ, bởi vì từ hơn 2.500 năm trước đã được các Tỳ-kheo thắc mắc và tranh cãi rồi nhưng cũng chưa tìm ra câu trả lời chân xác. Vì bất đồng ý kiến, nên họ cứ tranh luận mãi không thôi. Biết được chuyện này, Đức Phật liền đi đến, các Tỳ-kheo đã đồng đứng lên đảnh lễ rồi trình bày điều mình đang tranh luận.<br style="margin: 0px; padding: 0px;" /> </p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"></strong></p><blockquote><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Đức Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo! Các thầy bàn luận chưa đến chỗ cùng tột ý nghĩa của khổ đau. Khổ đau trong cuộc đời không gì hơn sự hiện hữu của thân này. Tất cả những nỗi khổ đau đói khát, nóng lạnh, sân giận, sợ hãi, sắc dục, tai họa… đều bắt nguồn từ thân này!”</strong><em style="margin: 0px; padding: 0px;"> (Kinh Pháp cú thí dụ).</em></blockquote><em style="margin: 0px; padding: 0px;"></em><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /> <p></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Có phải vì “thân này” mà con người đã luôn nuôi dã tâm tàn hại lẫn nhau, để giành mọi quyền lợi cho mình? Sự mù quáng vì quá tham đắm “thân này” đến nỗi nhà văn Nicolas Chamfort (1741-1784) đã phải kêu lên: “Người ích kỷ sẽ đốt nhà bạn để luộc một quả trứng”. Cung phụng những đòi hỏi, ham muốn cho “thân này” như vậy, là hết chỗ nói! Tuy vậy, những đòi hỏi của “thân này” chưa bao giờ chịu dừng lại, mà ngày càng nhiều thêm.<br style="margin: 0px; padding: 0px;" /> </p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhEybroycb4FkeVlsWECBLqN7D-TAVZD9Bb6iR3vPMNckoPn_lLXBo7KAO9sFvJDt47NYJIzlSN3WbZyqu2HLCbCB4s6mB0drhENBS1WIzNok6aKQgZt5gKtnSrlHBl-MBjiZ5VFTK9btBEKNIdgYPgbiRz_azoGxrlSsJ_BlNrxkB1CDTCunLlpwUnSA/s511/kho-dau1.jpg" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="511" data-original-width="360" height="320" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhEybroycb4FkeVlsWECBLqN7D-TAVZD9Bb6iR3vPMNckoPn_lLXBo7KAO9sFvJDt47NYJIzlSN3WbZyqu2HLCbCB4s6mB0drhENBS1WIzNok6aKQgZt5gKtnSrlHBl-MBjiZ5VFTK9btBEKNIdgYPgbiRz_azoGxrlSsJ_BlNrxkB1CDTCunLlpwUnSA/s320/kho-dau1.jpg" width="225" /></a></div><div style="text-align: justify;">Nhìn lại thực tế trong đời sống, chúng ta càng thấy rõ, chỉ vì “thân này” mà nghĩa tình ruột thịt đã phải chia cắt, bằng hữu xóm giềng phải xa nhau, đạo lý luân thường bị đảo lộn. Hàng ngày, tin trên các báo đều có ghi: Con đánh cha – giết hại mẹ, vợ phản bội chồng, chồng bạo hành vợ con, anh chị em đâm chém nhau, học trò vô lễ với thầy cô, bè bạn thù oán nhau v.v… cũng không ngoài vì danh và lợi, muốn tóm thu về thụ hưởng cho riêng mình. Xã hội rối ren, bất an triền miên chỉ vì ai ai cũng lo chụp giựt, tranh giành, chỉ mong o bế cho thân mình.</div><div style="text-align: justify;"><span style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; text-align: justify;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; text-align: justify;">Nếu con người sống ở cõi tạm này mà biết được rõ rằng, cái “thân này” chỉ là bóng mây, bọt nước, là pháp hư huyễn, có không vô thường để biết đủ; đem tâm từ của “thân này” hướng về kẻ khác, nuôi lớn cảm thông để sẻ chia – thì chắc chắn, nỗi khổ đau “thân này” cũng sẽ được xoa dịu, chuyển hóa, giảm đi rất nhiều – cho chính mình và cho mọi người. Suy cho cùng, cội nguồn của các khổ đau, manh mối của tai họa, lao tâm, khổ trí, sợ hãi – cũng chính bởi “thân này” mà ra cả!</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; text-align: justify;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; text-align: justify;">Ai cũng quý trọng thân này, cũng muốn được sống hạnh phúc, tham sống sợ chết, thì tại sao lại giẫm đạp lên thân người, đời người khác, để tạo nghiệp khổ đau cho đời này, đời sau? Đức Phật đã dạy: “Người nào cầu yên vui cho thân mình mà lại lấy dao gậy não hại kẻ khác, thì sẽ không bao giờ được yên vui” (PC.131). Lời nói đơn giản này ai cũng có thể thuộc nhưng có rất ít người làm được.</span></div><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"> </p><div style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Tham chấp thân tạm hư huyễn này mà gây tạo nghiệp ác, là sẽ chìm đắm trong vòng sinh tử luân hồi triền miên đau khổ! Biết “quên” thân này, mượn thân giả tạm để sống vì người, vì đời; rời xa vọng tưởng mê lầm, hướng tâm an tĩnh thì chắc chắn sẽ đạt được an vui.<br style="margin: 0px; padding: 0px;" /></div><div style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></div>voluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8726509563833692641.post-44034562757112982192021-03-03T09:25:00.012+07:002022-06-03T09:38:20.084+07:00Cuộc đời đau thương của loài chim Yến<p style="text-align: justify;"></p><div style="text-align: justify;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgAvvu2evQYXUFkEn9pkO1OG8ZKCZYgPgOEwLc1OwCXQzi9Meeue-qOOl5Dyyn_1vZ5ofN8O5hK96OLPYQ7DjbX451CdNmDIauDVzgsJVpcPGiB9cumesaIVSEejVJzjLmaflntDnx-khYVo1zsKbg9oiQH6HxXDb0Si9r2MA-neJOucGuZE0BToXInow/s800/chim-yen-lam-to-1.jpg" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em; text-align: center;"><img border="0" data-original-height="500" data-original-width="800" height="200" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgAvvu2evQYXUFkEn9pkO1OG8ZKCZYgPgOEwLc1OwCXQzi9Meeue-qOOl5Dyyn_1vZ5ofN8O5hK96OLPYQ7DjbX451CdNmDIauDVzgsJVpcPGiB9cumesaIVSEejVJzjLmaflntDnx-khYVo1zsKbg9oiQH6HxXDb0Si9r2MA-neJOucGuZE0BToXInow/s320/chim-yen-lam-to-1.jpg" width="320" /></a><b><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; font-size: 15px; white-space: pre-wrap;">VLCĐ: Những ai buôn bán sản phẩm từ tổ Yến hãy đọc bài này. Nhân quả lắm. Trích đoạn: "</span><span style="font-size: 15px; text-align: left; white-space: pre-wrap;"><span style="color: #050505;">Yến chống chọi để tồn tại, tạo hóa không đành lòng diệt vong một biểu tượng của tình yêu, tình mẫu tử. Trong thiên nhiên hoang dã, chắc Yến là loài duy nhất được mệnh danh “rút ruột cho con” nhờ đặc tính làm tổ bằng nước dãi. Cả chim mẹ và chim cha cùng nhau xây tổ. Nước dãi kết dính cây cỏ và chính những chiếc lông rứt ra đau đớn thành chiếc tổ kỳ diệu. Con người ranh mãnh khi lấy tổ yến đã cố tình chừa một ít. Yến hồn nhiên xây lại, dãi không đủ cho mùa sinh nên thổ huyết ra xây. Tước lông đến xơ rơ đôi cánh, trơ da thịt trân mình chịu đựng cơn gió biển rít buốt đến xương tuỷ. Cho đến chết đi rồi Yến vẫn không thể hiểu được một số giống người man rợ hoan hỉ gọi đó là “Hồng Yến”…</span></span></b></div><span style="background-color: white; color: #050505; font-family: inherit; font-size: 15px; white-space: pre-wrap;"><div style="text-align: left;"><span style="font-family: inherit;">-------------</span></div></span><p></p><div class="kvgmc6g5 cxmmr5t8 oygrvhab hcukyx3x c1et5uql ii04i59q" style="animation-name: none; background-color: white; color: #050505; font-family: "Segoe UI Historic", "Segoe UI", Helvetica, Arial, sans-serif; font-size: 15px; margin: 0px; overflow-wrap: break-word; transition-property: none; white-space: pre-wrap;"><div dir="auto" style="animation-name: none; font-family: inherit; text-align: justify; transition-property: none;"><span style="font-family: inherit;">Có 1 lần lâu lắm rồi tôi có gặp người bạn nói ngày xưa ở VN trước năm 75 có lần ông trúng thầu để lấy tổ yến…</span></div></div><div class="cxmmr5t8 oygrvhab hcukyx3x c1et5uql o9v6fnle ii04i59q" style="animation-name: none; background-color: white; color: #050505; font-family: "Segoe UI Historic", "Segoe UI", Helvetica, Arial, sans-serif; font-size: 15px; margin: 0.5em 0px 0px; overflow-wrap: break-word; transition-property: none; white-space: pre-wrap;"><div dir="auto" style="animation-name: none; font-family: inherit; text-align: justify; transition-property: none;">Sau lần đó ông giải nghệ luôn vì thấy ác độc quá…Ông nói tội lắm cô ơi…đôi khi phải vứt trứng yến hay chim non xuống biển để lấy tổ…Chim mẹ bay về quanh quẩn nơi tổ yến đã mất kêu thảm thiết lắm…Nghe ông nói mà tôi ứa nước mắt thương cho chim mẹ…</div></div><div class="cxmmr5t8 oygrvhab hcukyx3x c1et5uql o9v6fnle ii04i59q" style="animation-name: none; background-color: white; color: #050505; font-family: "Segoe UI Historic", "Segoe UI", Helvetica, Arial, sans-serif; font-size: 15px; margin: 0.5em 0px 0px; overflow-wrap: break-word; transition-property: none; white-space: pre-wrap;"><div dir="auto" style="animation-name: none; font-family: inherit; text-align: justify; transition-property: none;">CHUYỆN CỦA CHIM YẾN</div></div><div class="cxmmr5t8 oygrvhab hcukyx3x c1et5uql o9v6fnle ii04i59q" style="animation-name: none; background-color: white; color: #050505; font-family: "Segoe UI Historic", "Segoe UI", Helvetica, Arial, sans-serif; font-size: 15px; margin: 0.5em 0px 0px; overflow-wrap: break-word; transition-property: none; white-space: pre-wrap;"><div dir="auto" style="animation-name: none; font-family: inherit; text-align: justify; transition-property: none;">Câu chuyện ray rức lòng người.Xé gió biển, đôi cánh nhỏ dang rộng hết cỡ, lượn lên mất hút trên không trung rồi bất thần lao xuống hết tốc lực. Chẳng có gì ngăn cản nổi, Yến mẹ lao đầu vào vách đá dựng đứng. Để lại trên vách núi vệt máu tươi uất nghẹn và tiếng kêu khản đặc xé lòng của chim trống…Cảnh tượng đó lặp đi lặp lại trong những ngày vào mùa, mùa mà một loài hân hoan trên sự chết chóc đau thương của một loài khác. </div></div><div class="cxmmr5t8 oygrvhab hcukyx3x c1et5uql o9v6fnle ii04i59q" style="animation-name: none; background-color: white; color: #050505; font-family: "Segoe UI Historic", "Segoe UI", Helvetica, Arial, sans-serif; font-size: 15px; margin: 0.5em 0px 0px; overflow-wrap: break-word; transition-property: none; white-space: pre-wrap;"><div dir="auto" style="animation-name: none; font-family: inherit; text-align: justify; transition-property: none;">Mùa khai thác Tổ Yến.Yến, sống trung thành – chết thuỷ chung. Một đôi Yến khi đã sống cùng nhau là trọn đời trọn kiếp. Khi đã xây tổ ở đâu là vĩnh viễn không dời đi nữa. Tập tính đó giết hại Yến. Người vẫn thầm ngưỡng mộ và tự hỏi: Trong hàng ngàn chim Yến bay rợp biển kia mà vì sao các cặp đôi không bao giờ nhầm lẫn, không đời nào lang chạ? Hàng vạn tổ Yến ken đặc trên vách đá đó mà Yến luôn về đúng nhà của mình. Không bao giờ chiếm tổ chim khác? Rồi người lợi dụng triệt để đặc tính này để dụ Yến, nuôi Yến, lấy tổ Yến và vô tâm nhìn xác Yến…Nếu không may gặp một thợ hái tổ không chuyên hay thiếu kinh nghiệm. Không chừa lại một phần tổ, hoặc lấy đúng chiếc tổ của Yến sắp sinh. Chim mẹ trở về trong tình trạng mất tổ, không chịu nỗi đau đớn vì cơn chuyển dạ. Yến sẽ quẩn và chọn cách gieo mình vào vách núi, chính nơi đã xây mái ấm để quyên sinh.</div></div><div class="cxmmr5t8 oygrvhab hcukyx3x c1et5uql o9v6fnle ii04i59q" style="animation-name: none; background-color: white; color: #050505; font-family: "Segoe UI Historic", "Segoe UI", Helvetica, Arial, sans-serif; font-size: 15px; margin: 0.5em 0px 0px; overflow-wrap: break-word; transition-property: none; white-space: pre-wrap;"><div dir="auto" style="animation-name: none; font-family: inherit; text-align: justify; transition-property: none;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi6AhRp2PI8rMdFelRLz3XKIl1tyM5lYruAVaak5GOvLbs_5_ejEBoofZ8sNgXh09mw0eMDyU2tSLRjm9sn9zTbzvPOi6wjz3r75JgP41NDFsHPOFnZIGqjhFo0celCrPmj2yt2qwuJt00-lxeOWV88I07lNSUKYb1AxVqA10Ubtj0ZKlmeJm0H6eHutw/s650/chim-yen-lam-to.jpg" style="clear: left; display: inline !important; float: left; font-family: inherit; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em; text-align: center;"><img border="0" data-original-height="487" data-original-width="650" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi6AhRp2PI8rMdFelRLz3XKIl1tyM5lYruAVaak5GOvLbs_5_ejEBoofZ8sNgXh09mw0eMDyU2tSLRjm9sn9zTbzvPOi6wjz3r75JgP41NDFsHPOFnZIGqjhFo0celCrPmj2yt2qwuJt00-lxeOWV88I07lNSUKYb1AxVqA10Ubtj0ZKlmeJm0H6eHutw/s320/chim-yen-lam-to.jpg" width="320" /></a>Đa số chim Yến trống sau đó bay lượn điên cuồng, kêu gào thảm thiết rồi lao thẳng vào đúng chỗ vợ chết. Nên các vệt máu khô buồn in lại trên vách đá lạnh lẽo thường là vệt đôi bên nhau, thậm chí là chồng lên nhau. Nếu không tự tử, chim Yến trống sẽ sống cô độc suốt quảng đời còn lại.</div><div dir="auto" style="animation-name: none; font-family: inherit; text-align: justify; transition-property: none;"><span style="font-family: inherit;">Xưa, kẻ cùng đinh mạt vận mới phải ra nơi heo hút, leo trèo nguy hiểm tìm hái tổ Yến để mong đổi đời. Thường thì khi có chút vốn họ bỏ nghề và ăn năn sám hối. Họ không đời nào muốn con cái tiếp tục cái việc quá sức mạo hiểm, quá sức thất đức. Và đó là lý do không có “nghề lấy tổ Yến gia truyền” là vậy. </span><span style="font-family: inherit;">Nay, lòng tham con người vô cùng vô tận.</span></div></div><div class="cxmmr5t8 oygrvhab hcukyx3x c1et5uql o9v6fnle ii04i59q" style="animation-name: none; background-color: white; color: #050505; font-family: "Segoe UI Historic", "Segoe UI", Helvetica, Arial, sans-serif; font-size: 15px; margin: 0.5em 0px 0px; overflow-wrap: break-word; transition-property: none; white-space: pre-wrap;"><div dir="auto" style="animation-name: none; font-family: inherit; text-align: justify; transition-property: none;">Tạo hoá không ban phát cho ai tất cả. Loài chim hiền hoà xinh đẹp và thuỷ chung đó lại có đôi chân cực ngắn và mềm yếu. Yến dường như không thể đậu trên mặt đất, Yến treo thân trên vách cheo leo lúc đêm về. Còn lại gần như bay suốt, liên tục từ 12-15 giờ mỗi ngày. Săn mồi và ăn trong khi đang bay, ngủ trong lúc bay, thậm chí là “làm chuyện vợ chồng” trên không luôn.</div></div><div class="cxmmr5t8 oygrvhab hcukyx3x c1et5uql o9v6fnle ii04i59q" style="animation-name: none; background-color: white; color: #050505; font-family: "Segoe UI Historic", "Segoe UI", Helvetica, Arial, sans-serif; font-size: 15px; margin: 0.5em 0px 0px; overflow-wrap: break-word; transition-property: none; white-space: pre-wrap;"><div dir="auto" style="animation-name: none; font-family: inherit; text-align: justify; transition-property: none;">Bù lại, Mẹ Thiên Nhiên dạy Yến cách sinh tồn, mách bảo Yến sống trên cao, làm tổ nơi vách núi thẳng đứng, hẻo lánh và trơn trượt. Hòng tránh loài ăn thịt hiểm ác như rắn hay cú vọ. Có điều, ngay cả thiên nhiên cũng không biết được có loài ăn…tạp còn tàn độc hơn thú dữ. Loài có thể chinh phục bất cứ núi cao vực sâu hiểm trở nào hầu nhét cho đầy lòng tham tanh tưởi. Loài đã làm những cuộc tàn xác đẫm máu mang tên “Yến Sào”.</div></div><div class="cxmmr5t8 oygrvhab hcukyx3x c1et5uql o9v6fnle ii04i59q" style="animation-name: none; background-color: white; color: #050505; font-family: "Segoe UI Historic", "Segoe UI", Helvetica, Arial, sans-serif; font-size: 15px; margin: 0.5em 0px 0px; overflow-wrap: break-word; transition-property: none; white-space: pre-wrap;"><div dir="auto" style="animation-name: none; font-family: inherit; text-align: justify; transition-property: none;">Yến chống chọi để tồn tại, tạo hoá không đành lòng diệt vong một biểu tượng của tình yêu, tình mẫu tử. Trong thiên nhiên hoang dã, chắc Yến là loài duy nhất được mệnh danh “rút ruột cho con” nhờ đặc tính làm tổ bằng nước dãi. Cả chim mẹ và chim cha cùng nhau xây tổ. Nước dãi kết dính cây cỏ và chính những chiếc lông rứt ra đau đớn thành chiếc tổ kỳ diệu. Con người ranh mãnh khi lấy tổ yến đã cố tình chừa một ít. Yến hồn nhiên xây lại, dãi không đủ cho mùa sinh nên thổ huyết ra xây. Tước lông đến xơ rơ đôi cánh, trơ da thịt trân mình chịu đựng cơn gió biển rít buốt đến xương tuỷ. Cho đến chết đi rồi Yến vẫn không thể hiểu được một số giống người man rợ hoan hỉ gọi đó là “Hồng Yến”…</div></div><div class="cxmmr5t8 oygrvhab hcukyx3x c1et5uql o9v6fnle ii04i59q" style="animation-name: none; background-color: white; color: #050505; font-family: "Segoe UI Historic", "Segoe UI", Helvetica, Arial, sans-serif; font-size: 15px; margin: 0.5em 0px 0px; overflow-wrap: break-word; transition-property: none; white-space: pre-wrap;"><div dir="auto" style="animation-name: none; font-family: inherit; text-align: justify; transition-property: none;">Cuộc đời loài chim yến hiện nay thật quá thương tâm, vì lòng tham và sự tàn nhẫn của con người chưa từng giảm bớt…Hãy dừng lại việc nuôi yến, bán tổ yến cho đến tiêu thụ các sản phẩm từ chim yến.</div></div><div class="cxmmr5t8 oygrvhab hcukyx3x c1et5uql o9v6fnle ii04i59q" style="animation-name: none; background-color: white; color: #050505; font-family: "Segoe UI Historic", "Segoe UI", Helvetica, Arial, sans-serif; font-size: 15px; margin: 0.5em 0px 0px; overflow-wrap: break-word; transition-property: none; white-space: pre-wrap;"><div dir="auto" style="animation-name: none; font-family: inherit; text-align: justify; transition-property: none;"><blockquote>Nhân nào quả đấy, nếu mình phá hoại nhà cửa của người ta, chia rẽ gia đình người ta, cướp đoạt cái mà chẳng phải thuộc về mình, ăn nuốt vật phẩm dựa trên máu, nước mắt và sinh mạng của chúng sanh thì tương lai gia đình mình, con cháu mình, và cá nhân mình chẳng lẽ không bị quả báo tương tự hay sao? </blockquote></div></div><div class="cxmmr5t8 oygrvhab hcukyx3x c1et5uql o9v6fnle ii04i59q" style="animation-name: none; background-color: white; color: #050505; font-family: "Segoe UI Historic", "Segoe UI", Helvetica, Arial, sans-serif; font-size: 15px; margin: 0.5em 0px 0px; overflow-wrap: break-word; transition-property: none; white-space: pre-wrap;"><div dir="auto" style="animation-name: none; font-family: inherit; text-align: justify; transition-property: none;">Vì vậy: Trước khi làm điều gì, hãy nghĩ đến hậu quả của nó. </div><div dir="auto" style="animation-name: none; font-family: inherit; text-align: justify; transition-property: none;">(Nguồn Thầy Minh Hiển)</div></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: justify;"><br /></div><br />voluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8726509563833692641.post-85179501254213435822021-02-28T16:17:00.002+07:002022-06-07T16:47:23.041+07:00Giới luật Đại thừa Bài 01 - Phần 1- Người Xuất gia - HT Thích Thái Hòa giảng<p><span style="text-align: justify;"></span></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><span style="text-align: justify;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhpXhAYpw3C39i9iMTi27GP-GxhGalmfT72kq0IjXImAla0KeP41QrPBoYw-IT22icbW-wa2SacvsKwsi4CiteC1PmnylrUzRpYqpBOXo7n3uOuS54h05NS2wgoEu5ZTlIAcXswEotq_jmsE1LrnqS-Jc1suFL1EYXz7NGsSI024KGklS1ggIsSUTXP9A/s934/HT-Thai-Hoa-giang.jpg" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="524" data-original-width="934" height="180" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhpXhAYpw3C39i9iMTi27GP-GxhGalmfT72kq0IjXImAla0KeP41QrPBoYw-IT22icbW-wa2SacvsKwsi4CiteC1PmnylrUzRpYqpBOXo7n3uOuS54h05NS2wgoEu5ZTlIAcXswEotq_jmsE1LrnqS-Jc1suFL1EYXz7NGsSI024KGklS1ggIsSUTXP9A/s320/HT-Thai-Hoa-giang.jpg" width="320" /></a></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="text-align: justify;"><b>VLCĐ: Chúng ta đi tu không là để
mong cầu được làm Đại Đức, được làm Thượng tọa, Được làm Trụ trì, Ni trưởng, Ni
sư mà chúng ta đi tu là để mong cầu có được đời sống giải thoát, chấm dứt sinh
tử, sống một đời sống hữu ích, có lợi cho mình có lời cho người, hiện tại và
tương lai. Cho nên chúng ta tu như thế nào để mỗi ngày trong đời đi qua đem lại
một ý nghĩa, một giá trị thiết thực. Đi tu không phải để mà có chức danh này chức
danh khác ở trong tổ chức Phật giáo hay là ở ngoài xã hội mà để cho những phiền
não trong tâm mình mỗi ngày nó lắng xuống, cái hiểu biết sâu sắc đối với bản
thân mình qua bốn lãnh vực đối với thân, đối với cảm giác, đối với tâm hành,
đối với nội pháp và ngoại pháp nó luôn luôn hiện tiền trong chánh niệm tỉnh
giác của chúng ta....</b></span></div><p></p>
<p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><b><i>Nguồn: Luật viện Chùa Huệ Nghiêm<br />Kính mời nghe tiếp:</i></b></p><p class="MsoNormal" style="text-align: center;"><iframe allow="accelerometer; autoplay; clipboard-write; encrypted-media; gyroscope; picture-in-picture" allowfullscreen="" frameborder="0" height="315" src="https://www.youtube.com/embed/EIWvlvL3YGU" title="YouTube video player" width="560"></iframe></p><p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><br /></p>voluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8726509563833692641.post-66878257413593510342020-08-08T07:33:00.001+07:002022-06-10T08:49:01.609+07:00Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt<p style="text-align: justify;"><b itemprop="description" style="color: #333333; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px;"></b></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><b itemprop="description" style="color: #333333; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgYKoWZUhjEUS-CWtEpfIkvdCn_Q5iobyy1fmlXK3KHkILksveDAKP5lWIqNUB06IVbgGU8x7FGv2Sl5Cp1XxTxPG0mKJE6XcAjnpSqkRS4fxYOAV7ZG5a-Rs0YBJw1quU7h4LkbY7paol_Y4iH-HkRHAe5tUOkm1YTVK6exeO4S_7Jww7cBzRgv2r3MQ/s854/diep-minh-chau-2.jpg" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="480" data-original-width="854" height="180" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgYKoWZUhjEUS-CWtEpfIkvdCn_Q5iobyy1fmlXK3KHkILksveDAKP5lWIqNUB06IVbgGU8x7FGv2Sl5Cp1XxTxPG0mKJE6XcAjnpSqkRS4fxYOAV7ZG5a-Rs0YBJw1quU7h4LkbY7paol_Y4iH-HkRHAe5tUOkm1YTVK6exeO4S_7Jww7cBzRgv2r3MQ/s320/diep-minh-chau-2.jpg" width="320" /></a></b></div><span itemprop="description" style="color: #333333; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px;"><div style="font-weight: bold; text-align: justify;"><b itemprop="description" style="margin: 0px; padding: 0px;">VLCĐ: Thời xa xưa, người Việt sống chủ yếu dựa vào việc khai thác tự nhiên, vị trí địa lý nằm ở trung tâm khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa, thiên nhiên tương đối phong phú, đa dạng. Cho nên, việc thờ cúng các vị thần tự nhiên (nhiên thần) đã sớm thành tục lệ trong sinh hoạt tâm linh.</b><span style="background-color: white; text-align: justify;">Hơn nữa, Việt Nam lại là ngã ba đường nơi giao lưu của nhiều tộc người, của nhiều luồng văn minh. Hai yếu tố đó làm cho Việt Nam trở thành một quốc gia </span><strong style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><em style="margin: 0px; padding: 0px;">đa tôn giáo, tín ngưỡng</em></strong><span style="background-color: white; text-align: justify;">. Tính đa thần ấy không chỉ biểu hiện ở số lượng lớn các vị thần mà điều đáng nói là, các vị thần ấy cùng đồng hành trong tâm thức một người Việt. </span></div><div style="font-weight: bold; text-align: justify;"><span style="background-color: white; text-align: justify;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="background-color: white; text-align: justify;">Điều đó dẫn đến một đặc điểm của đời sống tín ngưỡng - tôn giáo của người Việt đó là tính </span><em style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">hỗn dung tôn giáo</em><span style="background-color: white; text-align: justify;">. Trước sự du nhập của các tôn giáo ngoại lai, người Việt không tiếp nhận một cách thụ động mà luôn có sự cải biến cho gần gũi với tư tưởng, tôn giáo bản địa. Vì vậy, ở nước ta, trong khi các tôn giáo vẫn phát triển thì các </span><a href="http://voluongcongduc.com/the-nao-la-me-tin-di-doan.html" style="color: #004175; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify; text-decoration-line: none;" target="_blank"><span style="margin: 0px; padding: 0px;">tín ngưỡng dân gian</span></a><span style="background-color: white; text-align: justify;"> vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân.</span></div></span><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj-NCwrdbamgheyZx1Y_I-KaHn_cKaB2JTB2k3htnYGaBm2IFrxaO7ILuC6gkAhDXw20kvVamB5RhGWZAZaat5zJqVUq-i8HKAxqNLoNqGMpKekVSqySD6OpDYDNdByxzQORUqg0F6b0GaBZMiUWSb4Tea1paDXKpWwcnb6havnhIes0PskSB6NsplxxQ/s660/Tho-Mau-Tay-Thien.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="418" data-original-width="660" height="405" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj-NCwrdbamgheyZx1Y_I-KaHn_cKaB2JTB2k3htnYGaBm2IFrxaO7ILuC6gkAhDXw20kvVamB5RhGWZAZaat5zJqVUq-i8HKAxqNLoNqGMpKekVSqySD6OpDYDNdByxzQORUqg0F6b0GaBZMiUWSb4Tea1paDXKpWwcnb6havnhIes0PskSB6NsplxxQ/w640-h405/Tho-Mau-Tay-Thien.jpg" width="640" /></a></div><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: center;"><em style="margin: 0px; padding: 0px;">Điện thờ Mẫu</em></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: center;"><em style="margin: 0px; padding: 0px;"><br /></em></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Cũng chính vì tính hỗn dung tôn giáo ấy mà người Việt thể hiện sự <em style="margin: 0px; padding: 0px;">bàng bạc</em> trong niềm tin tôn giáo. Đa số người Việt đều có nhu cầu tôn giáo, tuy nhiên, phần đông trong số đó <strong style="margin: 0px; padding: 0px;">không là tín đồ thành kính của riêng một tôn giáo nào</strong>. Một người vừa có thể đến chùa, vừa có thể đến phủ miễn là việc làm ấy mang lại sự thanh thản về tinh thần cho họ, có thể thoả mãn điều họ cầu xin. Vì thế, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, một đặc điểm trong đời sống tín ngưỡng - tôn giáo của người Việt là <em style="margin: 0px; padding: 0px;">tính dụng</em>. Tôn giáo là để phục vụ nhu cầu cần thiết, trực tiếp của họ trong cuộc sống</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi muốn đề cập đến một loại hình tín ngưỡng đó là thờ Tam phủ, Tứ phủ<br style="margin: 0px; padding: 0px;" />Tam phủ là danh từ để chỉ ba vị thánh thần: Bà Trời (hay Mẫu Thượng Thiên), Bà Chúa Thượng (hay Mẫu Thượng Ngàn), Bà Nước (hay Mẫu Thoải). Tứ phủ gồm ba vị Mẫu trên cộng thêm Mẫu Địa phủ. Các Mẫu cai quản những lĩnh vực quan trọng nhất của một xã hội nông nghiệp. Về sau do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa nên có thêm Ngọc Hoàng, Thổ Công và Hà Bá. Thần Mặt Trời là vị thần quan trọng nhất, có mặt trên tất cả các trống đồng. Việc thờ trời ở Việt Nam có trước ở Trung Quốc. Tín ngưỡng thờ Tam phủ, Tử phủ là một dạng của tín ngưỡng thờ Mẫu.</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhXWL_e_f1YO-eWg7tVNK-1AHaD8-NnQRn6eEfSVyHnUImw1wMk2HM_V9NDDNPT9TMWsLy-7FWX9mtGDYCkeOeLjbPUfnp9qM0_WuMGF1ACR5TZ16ZxyEd1N94_WGptnukOmLfLOyC_2OR6iNQqH4-7jA5mA1w0uQVpC_49_IREAQwIPOD7gQxIvx7lUw/s854/diep-minh-chau-3.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="480" data-original-width="854" height="360" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhXWL_e_f1YO-eWg7tVNK-1AHaD8-NnQRn6eEfSVyHnUImw1wMk2HM_V9NDDNPT9TMWsLy-7FWX9mtGDYCkeOeLjbPUfnp9qM0_WuMGF1ACR5TZ16ZxyEd1N94_WGptnukOmLfLOyC_2OR6iNQqH4-7jA5mA1w0uQVpC_49_IREAQwIPOD7gQxIvx7lUw/w640-h360/diep-minh-chau-3.jpg" width="640" /></a></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEidmphc92MbBxzoYpmyd9WlWwKjRe3rIrMYCQg93aqmUVQ7-NcN3GdEYya_CDwQAGdMBxycrkAdXdxIAz3LAg4NweJSWho7l2ixJtrG-Ijl1kTCXNMBjOvUEH0zaeTxKm_dce1WEWDzNYnLR6QemaUcltMsglej8Q1GPTTbXxyF1sohT3abhJIRwBqQKA/s854/diep-minh-chau-1.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="480" data-original-width="854" height="360" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEidmphc92MbBxzoYpmyd9WlWwKjRe3rIrMYCQg93aqmUVQ7-NcN3GdEYya_CDwQAGdMBxycrkAdXdxIAz3LAg4NweJSWho7l2ixJtrG-Ijl1kTCXNMBjOvUEH0zaeTxKm_dce1WEWDzNYnLR6QemaUcltMsglej8Q1GPTTbXxyF1sohT3abhJIRwBqQKA/w640-h360/diep-minh-chau-1.jpg" width="640" /></a></div><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: center;"><em style="margin: 0px; padding: 0px;">Lên đồng: Cô đồng Tuyền Hà - Diệu Minh Châu</em></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: center;"><em style="margin: 0px; padding: 0px;"><br /></em></p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam được hình thành và phát triển trên cái nền thờ Nữ thần và Mẫu thần bản địa, rồi tiếp thu những ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Hoa để đạt đến đỉnh cao là đạo thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Tới thế kỷ 17-18, khi Mẫu Tam phủ, Tứ phủ đã được hình thành và phát triển thì nó lại Tam phủ, Tứ phủ hóa tục thờ Nữ thần, Mẫu thần. Tam phủ là danh từ để chỉ ba vị thánh thần cải quản 3 cõi (phủ): Thiên Phủ có Mẫu Thượng Thiên thay thế Ngọc Hoàng. (Tại vùng Nam Định, Mẫu Liễu Hạnh là Mẫu Thượng Thiên; Ở vùng núi Tam Đảo - Vĩnh Phúc có Quốc Mẫu Tây Thiên Lăng Thị Tiêu đứng đầu Thiên Phủ); Nhạc Phủ có Mẫu Thượng Ngàn thay thế cho Sơn Thần, Bạch Hổ; Thuỷ Phủ có Mẫu Thoải thay thế cho Long Vương; Tứ phủ gồm ba vị Mẫu trên cộng thêm Mẫu Địa phủ thay thế cho Diêm Vương. Do thờ chung trong một điện nên có chữ công đồng, hoặc tứ phủ công đồng (bốn phủ cùng nhau). Toạ ở ngôi cao nhất trên điện thần là bốn pho tượng Mẫu đều đội mũ hoa, nét mặt và dáng ngồi quyền quý, có sắc phục áo khác nhau, theo mầu sắc nguyên thuỷ của ngũ hành: Màu đỏ (thiên phủ); Màu xanh (nhạc phủ); Màu trắng (thoải phủ); Màu vàng (địa phủ).</p><p style="background-color: white; font-family: arial, tahoma, verdana; font-size: 14px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;"><br /></p>voluongcongduchttp://www.blogger.com/profile/03186998847839212692noreply@blogger.com0