NGUYÊN NHÂN ĐỨC PHẬT GIẢNG PHÁP HẠNH PHÚC
Hai mươi sáu thế kỷ trước đây, nghĩa là trước khi Đức Thế Tôn thành đạo, có phong trào tìm hiểu chân lý chung quanh con người và kiếp sống của con người. Các nhà hiền triết ra sức giải đáp những câu hỏi sau đây:
- Người từ đâu sanh đến?
- Tại sao lại chết?
- Chết rồi sanh đi đâu?
- Tại sao người giàu sang, nghèo hèn khác nhau?
- Làm sao tìm được hạnh phúc?
Do cách giải đáp những câu hỏi đó mà sanh ra nhiều Tôn giáo, tùy theo kiến thức và quan điểm của các vị giáo chủ dẫn giải hấp dẫn tín đồ.
Phong trào ấy phổ biến rất mau và rất sâu rộng tại Trung phần Ấn Độ. Người ta thường tụ tập dưới cội cây to nơi ngã ba đường, hay ngã tư đường, hay ở các cửa thành cùng các nhà công cộng dọc theo vệ đường, để bàn cãi và giảng giải những vấn đề kể trên.
Vấn đề quan trọng nhất trong thời kỳ ấy là con người muốn hạnh phúc. Câu thường hỏi nêu ra là: “Cái gì đem hạnh phúc đến cho nhân loại?”
Có vị giáo chủ đáp: “Tôi biết nguyên nhân đem hạnh phúc đến cho con người. Phàm trong thân thể con người, mắt là quan trọng nhất, vì mắt đem lại ánh sáng cho con người, là nguồn tươi sáng của con người. Người mà không có mắt, thì không còn phân biệt vạn vật chung quanh”. Vì vậy, giáo chủ cho rằng: Mắt là nơi đem lại hạnh phúc đến cho con người. Mắt là nguồn hạnh phúc.
Khi ấy có người hỏi: “Theo lời ngài chỉ giáo thì mắt là nhân đem lại hạnh phúc đến cho con người phải chăng?”
Người ấy đáp: “Như tôi đã nói, mắt là chủ nhân của thân này và cả đời sống của con người nữa. Mắt đem lại tất cả hạnh phúc đến cho con người. Vì vậy nên tôi cũng nhận rằng mọi vật mà mắt trông thấy đều đem lại hạnh phúc đến cho con người”.
Người nọ mới hỏi: “Ngài dạy thật đúng, tôi rất hoan nghênh, nhưng tôi còn nghi ngờ, không tin rằng tất cả sự vật mà mắt trông thấy đều là tốt đẹp hết. Bởi vì có những sự kiện bất hạnh, như những người bất hạnh, cùi, phong, có những việc nhơ nhớp hay việc làm cho mình bất bình, nếu ngài cho rằng những gì mắt thấy toàn là hạnh phúc, vậy những vật ấy có hạnh phúc hay không?”
Vì bị người chỉ trích như thế, không còn gì được nữa, ông giáo chủ hạnh phúc cụt hứng. Nhưng không vì vậy mà ông ta bỏ, ông vẫn tiếp tục truyền bá chủ trương hạnh phúc của ông và cũng còn có một nhóm người tin theo ông, nên lý thuyết ấy cũng còn tồn tại một thời gian, gọi là Dittha-mangala, tức là chủ nghĩa nói: Thấy là hạnh phúc.
Lại có vị giáo chủ khác chủ trương nghe là hạnh phúc, Phạn ngữ gọi là Sutamangala. Ông nói: “Nếu nói thấy là hạnh phúc, thì thật là lầm, vì mắt không quan trọng, như người ta nói chính là tai mới là quan trọng. Mắt là một giác quan lười biếng nhất trong thân này, nó còn phải nghỉ, hơn nữa mắt chỉ thấy vật gì trước nó và có ánh sáng nó mới trông thấy được, nếu thiếu ánh sáng và không phải ở trước nó, no không hề trông thấy được. Thế là mắt không quan trọng bằng tai, vì tai nghe không cần ban ngày hoặc ban đêm, ở phía nào đưa tới đều nghe cũng được. Vì vậy nên tôi công nhận rằng tai mới là vật đem hạnh phúc lại cho người”.
Có người hỏi: “Thưa ngài, vậy những tiếng gì đã nghe do nơi tai đều là hạnh phúc và an lành hết chăng?”
Vị giáo chủ ấy đáp: “Chắc chắn vậy”.
Người nọ hỏi: “Nếu vậy, khi nghe tiếng chửi bới nguyền rủa có phải là hạnh phúc chăng?”
Vị giáo chủ chủ trương nghe là hạnh phúc không giải thích cho thông, nên lại bị đả đảo như giáo chủ chủ trương thấy là hạnh phúc.
Khi ấy lại có vị giáo chủ chủ trương sự suy nghĩ là hạnh phúc, Phạn ngữ là Cintamangala. Vị ấy nói rằng: “Sự thật là trong thân người, bộ phận quan trọng nhất là tâm. Người nhờ có tâm mới biết được mọi việc, và có tâm mới biết mà hành động và phân biệt được mọi lẽ, người biết suy nghĩ cũng do nơi tâm, bởi vậy tâm mới là nhân đem hạnh phúc lại cho nhân loại. Vạn vật trên vũ trụ này đều do tâm tạo, nên tâm mới là nhân đem lại hạnh phúc cho ta”.
Có người đứng lên hỏi: “Lời ngài dạy thật là chí lý, nhưng lũ cướp vừa bị xử trảm tại pháp trường đây, có phải là do sự suy nghĩ của họ đem sự tai hại cho họ hay không?”
Thế là thêm một vị giáo chủ bị loại trừ. Nhưng thiên hạ bấy giờ vẫn còn tìm biết chuyện nhân của hạnh phúc.
Người ta thường đem ba lý thuyết trên kia ra tranh luận với nhau, sự tranh biện như thế kéo dài đến 12 năm cũng chẳng ngã ngủ vào đâu. Về sau này, Đức Thế Tôn đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Ngài truyền bá chân lý sâu rộng trong cõi Diêm Phù. Lúc ấy, có một vị Trời đến bạch hỏi Phật về hạnh phúc, Đức Phật mới dạy về 38 Pháp Hạnh phúc.
Ba mươi tám Pháp Hạnh phúc ấy, có thể chia ra làm hai loại là:
1. Những sự hạnh phúc của các bậc học giả uyên thâm tự mình tìm thấy, một nguyên do nào đem hạnh phúc lại cho mình, rồi tưởng nguyên do ấy cũng đem được hạnh phúc cho toàn thể nhân loại. Hạnh phúc ấy là trừu tượng, không phải là tuyệt đối, đó là thứ hạnh phúc của ba vị giáo chủ vừa đề cập trên đây.
2. Hạnh phúc của đấng Giác ngộ thuyết ra. Ngài không thuyết theo sự hiểu riêng của cá nhân ngài, mà Ngài thuyết theo Chánh pháp Ngài đã đắc dưới cội cây bồ đề do nhờ công đức Ba la mật của ngài.
Phàm người muốn được hạnh phúc thì phải thực hành 38 pháp, phân làm 3 giai cấp là:
1. Từ pháp hạnh phúc thứ nhất tới pháp thứ 18, để tạo nên một đời sống hạnh phúc giữa xã hội.
2. Từ pháp thứ 19 tới pháp thứ 30 để dạy tâm cho thanh tịnh, không để cho tâm bị tiền tài danh lợi lung lay.
3. Từ pháp 31 tới pháp 38 để dứt phiền não, nhập Niết Bàn, là nơi an vui tuyệt đối.
Các bậc tại gia cư sĩ và các hàng xuất gia tu sĩ hành trì các pháp hạnh phúc ấy tùy theo trình độ tinh tấn của mỗi hạng, từ các bậc căn cơ thấp cho tới bậc phước duyên tròn đầy. Nói một cách khác, 38 Pháp Hạnh phúc dạy phương pháp giải thoát hoàn toàn cho người Phật tử chân chính có lòng muốn tu giải thoát.
Phổ nhạc bài Kinh Hạnh Phúc - NS Võ Tá Hân - CS Bảo Yến
38 Pháp Hạnh phúc được thuyết giảng trong mười câu kệ ngôn trình bày theo thứ tự sau đây.
KỆ NGÔN I(3 HẠNH PHÚC)
Không gần gũi kẻ ác,
Thân cận bậc trí hiền,
Đảnh lễ người đáng lễ,
Là phúc lành cao thượng.
KỆ NGÔN II(3 HẠNH PHÚC)
Ở trú xứ thích hợp,
Công đức trước đã làm,
Chân chánh hướng tự tâm,
Là phúc lành cao thượng.
KỆ NGÔN III(4 HẠNH PHÚC)
Đa văn, nghề nghiệp giỏi,
Thông suốt các luật nghi,
Nói những lời chân thật,
Là phúc lành cao thượng.
KỆ NGÔN IV(4 HẠNH PHÚC)
Hiếu thuận bậc sinh thành,
Dưỡng dục vợ và con,
Sở hành theo nghiệp chánh,
Là phúc lành cao thượng.
KỆ NGÔN V(4 HẠNH PHÚC)
Bố thí, hành đúng pháp,
Giúp ích hàng quyến thuộc,
Giữ chánh mạng trong đời,
Là phúc lành cao thượng.
KỆ NGÔN VI(3 HẠNH PHÚC)
Xả ly tâm niệm ác,
Chế ngự không say sưa,
Không phóng dật trong pháp,
Là phúc lành cao thượng.
KỆ NGÔN VII(5 HẠNH PHÚC)
Đức cung kinh, khiêm nhường,
Tri túc và Tri ân,
Đúng thời nghe chánh pháp,
Là phúc lành cao thượng.
KỆ NGÔN VIII(4 HẠNH PHÚC)
Nhẫn nại, lời nhu hòa,
Yết kiến bậc Sa-môn,
Tùy thời đàm luận pháp,
Là phúc lành cao thượng.
KỆ NGÔN IX(4 HẠNH PHÚC)
Tự chủ, sống Phạm hạnh,
Thấy được lý Thánh đế,
Giác ngộ đại Niêt-bàn,
Là phúc lành cao thượng.
KỆ NGÔN X(4 HẠNH PHÚC)
Khi xúc chạm việc đời
Tâm không động, không sầu,
Tự tại và vô nhiễm,
Là phúc lành cao thượng.
KỆ NGÔN XI
Những sở hành như vậy
Không chỗ nào thối thất
Khắp nơi được an toàn
Là phúc lành cao thượng.
KINH HẠNH PHÚC (MAṄGALA SUTTA )
Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ Bhagavā Sāvatthiyaṃ viharati Jetavane Anāthapiṇḍikassa Ārāme. Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkanta-vaṇṇā kevala-kappaṃ Jetavanaṃ obhāsetvā yena Bhagavā ten’upasaṅkami upasaṅkamitvā Bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā Bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi.
Bahū devā manussā ca
Maṅgalāni acintayuṃ
Ākaṅkhamānā soṭṭhānaṃ
Brūhi maṅgalam’uttamaṃ.
Như vậy tôi nghe / Một thời Thế Tôn / Ngự tại Kỳ Viên Tịnh Xá / Của Trưởng giả Cấp Cô Độc / Gần thành Xá vệ./
Khi đêm gần mãn / Có một vị Trời / Dung sắc thù thắng / Hào quang chiếu diệu / Sáng tỏa Kỳ Viên /
Đến nơi Phật ngự / Đảnh lễ Thế Tôn / Rồi đứng một bên / Cung kính bạch Phật / Bằng lời kệ rằng:
“Chư Thiên và nhân loại
Suy nghĩ điều hạnh phúc
Hằng tầm cầu mong đợi
Một đời sống an lành
Xin ngài vì bi mẫn
Hoan hỷ dạy chúng con.
Về phúc lành cao thượng”
(Thế Tôn tùy lời hỏi
Mà giảng giải như vầy)
Asevanā ca bālānaṃ
Paṇḍitānañca sevanā
Pūjā ca pūjanīyānaṃ
Etaṃ maṅgalam’uttamaṃ.
1. Không gần gũi kẻ ác
Thân cận bậc trí hiền
Đảnh lễ người đáng lễ
Là phúc lành cao thượng
Paṭirūpa-desa-vāso ca
Pubbe ca kata-puññatā
Atta sammā paṇīdhi ca
Etaṃ maṅgalam’uttamaṃ
2. Ở trú xứ thích hợp
Công đức trước đã làm
Chân chánh hướng tự tâm
Là phúc lành cao thượng.
Bāhu-saccañca sippañca
Vinayo ca susikkhito
Subhāsitā ca yā vācā
Etaṃ maṅgalam’uttamaṃ.
3. Đa văn, nghề nghiệp giỏi
Thông suốt các luật nghi
Nói những lời chân chất
Là phúc lành cao thượng.
Mātā-pitu upaṭṭhānaṃ
Putta-dārassa saṅgaho
Anākulā ca kammantā
Etaṃ maṅgalam’uttamaṃ.
4. Hiếu thuận bậc sinh thành
Dưỡng dục vợ và con
Sở hành theo nghiệp chánh
Là phúc lành cao thượng.
- Dānañca dhamma-cariyā ca
Ñātakānañca saṅgaho
Anavajjāni kammāni
Etaṃ maṅgalam’uttamaṃ
5. Bố thí hành đúng pháp
Giúp ích hàng quyến thuộc
Giữ chánh mạng trong đời
Là phúc lành cao thượng.
Āratī-viratī pāpā
Majja-pānā ca saññamo
Appamādo ca dhammesu
Etaṃ mangalam’uttamaṃ.
6. Xả ly tâm niệm ác
Chế ngự không say sưa
Không phóng dật trong pháp
Là phúc lành cao thượng.
- Gārāvo ca nivāto ca
Santuṭṭhī ca kataññutā
Kālena dhamma-savanaṃ
Etaṃ maṅgalam’uttamaṃ.
7. Đức cung kính, khiêm nhường
Tri túc và tri ân
Đúng thời nghe chánh pháp
Là phúc lành cao thượng.
- Khantī ca sovacassatā
Samaṇānañca dassanaṃ
Kālena dhamma-sākacchā
Etaṃ maṅgalam’uttamaṃ
8. Nhẫn nhục, lời nhu hòa
Yết kiến bậc sa môn
Tùy thời đàm luận Pháp
Là phúc lành cao thượng.
- Tapo ca brahma-cariyā ca
Ariya-saccāni dassanaṃ
Nibbāna-sacchikiriyā ca
Etaṃ maṅgalam’uttamaṃ
9. Tự chủ, sống Phạm hạnh
Thấy được lý Thánh đế
Giác ngộ Đại Niết Bàn
Là phúc lành cao thượng.
- Phuṭṭhassa loka-dhammehi
Cittaṃ yassa na kampati
Asokaṃ, virayaṃ, khemaṃ
Etaṃ maṅgalam’utamaṃ
10. Khi xúc chạm việc đời
Tâm không động, không sầu
Tự tại và vô nhiễm
Là phúc lành cao thượng
Etādisāni katvāna
Sabbattham’aparājitā
Sabbattha-sotthiṃ gacchanti taṃ
Tesaṃ maṅgalam’uttaman’ti.
Những sở hành như vậy
Không chỗ nào thối thất
Khắp nơi được an toàn
Là phúc lành cao thượng.
Nguồn: http://www.budsas.org
Đăng nhận xét