Ấn Quang ghi.
1. Câu đối tán dương Phật Thích Ca
a)Hạ Đâu Suất nhi giáng thần, trụ thế bát thập kỳ niên, linh cửu giới
chúng sanh triệt kiến bản lai chân diện mục. Đổ minh tinh nhi ngộ đạo,
đàm kinh tam bách dư hội, tỉ đại thiên Phật tử phục quy nguyên hữu cựu
gia hương (Từ Đâu Suất giáng thần, trụ thế suốt tám mươi năm khiến cả
chín giới chúng sanh thấy tột cùng bản lai chân diện mục Thấy sao Mai
ngộ đạo, giảng kinh hơn ba trăm hội hòng Phật tử khắp cõi đại thiên trở
về lại chốn quê hương sẵn có) b)Phật ứng Tây Càn, độ chúng sanh dĩ ngộ
chứng Bồ Đề, cố cảm thiên long thường ủng hộ. Pháp lưu Đông Độ, khai văn
hóa nhi chấn phát lung quý, trí linh hiền trí tận quy tông. (Phật ứng
hiện trời Tây, cứu độ chúng sanh, ngộ chứng Bồ Đề, nên cảm trời - rồng
thường ủng hộ. Pháp truyền sang xứ Đông, mở mang văn hóa, rúng động điếc
- đui, khiến cho hiền - trí đều quy ngưỡng)
c)Tam Hoặc tận nhi nhị tử
vong, nhất trần bất lập, Ngũ Uẩn không nhi lục căn tịnh, vạn đức viên
chương (Tam Hoặc hết, nhị tử tiêu, mảy trần chẳng lập, Ngũ Uẩn không,
sáu căn sạch, muôn đức trọn bày)
d)Viên ngộ Tạng tánh, triệt chứng tự
tâm, đạo thông thiên địa hữu hình ngoại Từ khởi vô duyên, bi vận đồng
thể, ân biến thánh phàm hàm thức trung. (Viên ngộ Tạng tánh, chứng tột
tự tâm, đạo thông trời - đất, vượt khỏi hữu hình, Khởi vô duyên từ, vận
bi đồng thể, ân trùm thánh - phàm, thấu cùng hàm thức).
e)Ký hữu tình
cộng chứng chân thường bản tịch diệt tâm, thuyết viên thông pháp, Kỳ hàm
thức đồng đăng giác ngạn, y nhất thật đạo, khai phương tiện môn. (Mong
hữu tình cùng chứng tâm chân thường sẵn tịch diệt, nói pháp viên thông,
Cầu hàm thức đều lên bến giác nương đạo nhất thật, mở cửa phương tiện)
f)Hoa Nghiêm đốn diễn viên tông, độc bị thượng căn, thượng vị tất phù
xuất thế độ sanh chi hoằng thệ, Hạnh Nguyện đạo quy Cực Lạc, toàn thâu
cửu giới, phương kham đại sướng thành đạo lợi vật chi bản hoài. (Kinh
Hoa Nghiêm giảng tông viên đốn, chỉ thích hợp thượng căn, vẫn chưa khế
hợp hoằng thệ “độ trọn chúng sanh”, Phẩm Hạnh Nguyện dẫn về Cực Lạc,
trọn bao trùm chín giới, mới kham thỏa bản hoài thành đạo lợi muôn
loài)
2. Câu đối tán dương A Di Đà Phật
Mạc nhạ nhất xưng siêu Thập Địa Tu tri lục tự quát tam thừa (Chớ ngờ một câu siêu Thập Địa Phải hay sáu chữ trọn tam thừa)
3. Câu đối tán dương Phật Thích Ca
Hoa biểu viên nhân, hiển Như Lai thành thủy thành chung chi đạo Nghiêm
chương thật quả, thị chúng sanh tâm tác tâm thị chi môn. (Hoa biểu thị
viên nhân, tỏ rõ đạo thành thủy thành chung của Như Lai Nghiêm trang bày
thật quả, chỉ bày môn “tâm làm, tâm là” nơichúng sanh).
4. Câu đối tán dương Phật Di Đà
a)Như Lai chửng tế vô phương, quảng độ chúng sanh tu độ ngã Ngô bối
linh bình một ký, bất niệm Di Đà cánh niệm thùy? (Như Lai cứu vớt khôn
ngằn, muốn rộng độ chúng sanh phải độ ta [trước đã], Bọn ta lênh đênh
không nơi nương tựa, chẳng niệm Di Đà còn biết niệm ai?)
b)Y hoằng thệ
nguyện, kiến chiết nhiếp chi pháp môn, đản khẳng nhất tâm trì danh, tự
nhĩ tiềm phù Thật Tướng, tỉ tứ thánh lục phàm đồng chứng chân thường, cố
đắc cửu giới hàm quy, thập phương cộng tán. Dĩ đại từ bi, lập yểm hân
chi thắng hạnh, nhược năng sơ độ thác chất, hà nan đốn nhập Tịch Quang,
đạo tam thừa ngũ tánh tề đăng tịnh vực, nhân tư thiên kinh câu xiển, vạn
luận quân tuyên. (Nương thệ nguyện rộng sâu, lập pháp môn chiết -
nhiếp[3], chỉ cần nhất tâm trì danh, từ đấy ngầm hợp Thật Tướng, khiến
tứ thánh lục phàm cùng chứng chân thường, nên được chín giới đều hướng
về, mười phương cùng khen ngợi. Dùng từ bi rộng lớn, tạo thắng hạnh ưa -
chán, nếu được sanh về Sơ Độ[4], khó gì mau nhập Tịch Quang, dẫn tam
thừa ngũ tánh đều lên cõi tịnh, do vậy ngàn kinh cùng xiển dương, muôn
luận đều tuyên nói)
c)Ưng đương phát nguyện, nguyện vãng sanh, khách lộ
khê sơn, thiết mạc tùng đầu tái quyến luyến. Tự thị bất quy, quy tiện
đắc, cố hương phong nguyệt, trực tu toàn thể tổng thân thừa. (Hãy nên
phát nguyện, nguyện vãng sanh, núi khe nẻo khách, từ rày thôi quyến
luyến. Tự mình chẳng về, về liền được, gió trăng quê cũ, toàn thể hãy tự
vâng)
d)Thành tựu lục bát đại nguyện, cư Tây Phương dĩ tác Phật, cử Hoa
Tạng thế giới chư trang nghiêm viên chương Tịnh Độ, Mẫn niệm cửu phẩm
hàm linh, hướng Đông vực nhi thùy từ, dẫn Sa Bà quốc trung chúng nam nữ
đồng vãng liên bang. (Thành tựu bốn mươi tám đại nguyện, làm Phật chốn
Tây Phương, toàn thể thế giới Hoa Tạng trang nghiêm trọn phô Tịnh Độ,
Nghĩ thương khắp chín phẩm hàm linh, rủ lòng Từ Đông độ, dẫn khắp cõi
nước Sa Bà nam nữ cùng đến liên bang)
e)Xả Tây quy tiệp kính, cửu giới
hữu tình thượng hà dĩ viên thành giác đạo? Ly Tịnh Độ pháp môn, thập
phương chư Phật hạ bất năng phổ lợi quần manh (Bỏ đường tắt Tây Phương,
chín giới hữu tình trên lấy gì để viên thành giác đạo? Lìa pháp môn Tịnh
Độ, mười phương chư Phật dưới chẳng thể lợi khắp quần manh)
g)Ngũ trụ
nhị chấp, mông quang đốn viên phù tứ đức, Tam thừa lục đạo, khắc niệm
định chứng ư Nhất Chân, (Ngũ trụ nhị chấp[5], nương quang nhanh chóng
viên thành Tứ Đức, Tam thừa lục đạo, quyết lòng chắc chắn chứng nhập
Nhất Chân)
h)Phật nguyện hoằng thâm, thập phương cộng tán, Sanh tâm khẩn
đáo, cửu giới đồng quy (Nguyện đức Phật rộng sâu, mười phương cùng khen
ngợi, Tâm chúng sanh gấp tới, chín giới đều hướng về)
i)Thọ lượng vô
biên, thụ cùng tam tế, Quang minh hữu tượng, hoành biến thập phương.
(Thọ lượng không ngằn mé, theo chiều dọc tột cùng ba đời, Quang minh
hiện hình ảnh, theo chiều ngang trọn khắp mười phương)
j)Khổ hải vô
biên, hồi đầu thị ngạn, Lạc bang hữu lộ, khởi tín tức sanh (Biển khổ vô
biên, quay đầu là bờ, Cõi vui có nẻo, tin tưởng liền sanh)
k)Duy kỳ Ngũ
Trược đốn không, nhậm tha hương vô nhân phần, địa vô nhân tảo, Thảng đắc
Nhất Chân cộng chứng, tự nhĩ nguyện linh ngã mãn, tâm linh ngã an (Chỉ
mong mau không Ngũ Trược, nào quản hương không người thắp, đất không
người quét, Nếu được cùng chứng Nhất Chân, từ đấy nguyện khiến ta thỏa,
tâm khiến ta an)
5. Câu đối tán dương Phật Di Lặc
Bảo các phú thập hư, uyển nhược không hàm vạn tượng,
Phân thân biến trần sát, trực đồng nguyệt ấn thiên giang
(Gác báu rợp mười phương, giống hệt hư không chứa muôn hình tượng,
Phân thân khắp cõi trần, nào khác vầng trăng in bóng ngàn sông)
6. Câu đối tán dương Phật Di Đà
a)Tế độ vô phương, lân y thể nhất,
Tân lương võng trắc, mẫn bỉ mê thâm.
(Tế độ khôn ngằn, xót chúng sanh vốn cùng một thể,
Bến bờ nào thấu, thương hữu tình mê muội sâu xa)
b)Thệ nguyện hoằng thâm, thập phương cộng tán
Từ bi quảng đại, cửu giới đồng quy
(Thệ nguyện rộng sâu, mười phương cùng khen ngợi,
Từ bi rộng lớn, chín giới đều nương về)
7. Câu đối tán dương ngài Di Lặc
a)Thản phúc tiếu dung nhiếp hải chúng,
Phân thân tán ảnh thị thời nhân.
(Bụng rộng mặt cười nhiếp hải chúng,
Phân thân hiện bóng dạy người đời)
b)Yến tọa đẳng nhân lai, dự nhiếp Long Hoa hội lý hữu duyên chi bối
Phùng cơ dĩ tiếu ứng, viên chương đại đỗ bì trung vô sở bất dung
(Ngồi lặng đợi người đến, nhiếp sẵn hạng hữu duyên trong hội Long Hoa,
Gặp căn cơ bèn cười, phô trọn bụng to đùng không gì chẳng chứa)
c)Lâu các môn khai, viên chương pháp giới tu nhân sự,
Từ bi nguyện phổ, dự nhiếp Long Hoa chứng quả nhân
(Cửa lâu các mở, trọn bày sự tu nhân nơi pháp giới,
Từ bi nguyện khắp, nhiếp sẵn người chứng quả hội Long Hoa)
8. Câu đối tán dương đức Quán Âm
Hữu cảm tức thông, thiên giang hữu thủy thiên giang nguyệt,
Vô cơ bất bị, vạn lý vô vân vạn lý thiên.
(Có cảm gì liền thông, ngàn sông in bóng nước ngàn trăng,
Không căn nào chẳng ứng, vạn dặm không mây vạn dặm trời)
9. Câu đối tán dương đức Phật
Triệt chứng Nhất Chân pháp giới, Tam Hoặc tận nhi nhị tử vong, đức siêu Thập Địa,
Phổ linh cửu loại thánh phàm, Ngũ Uẩn không nhi lục độ cụ, đạo kế Đại Hùng.
(Chứng tột Nhất Chân pháp giới, Tam Hoặc hết, nhị tử[6]tiêu, đức siêu việt hàng Thập Địa,
Khiến khắp chín loại thánh phàm, Ngũ Uẩn không, lục độ trọn, đạo thừa kế đấng Đại Hùng)
10. Câu đối tán dương Quán Âm Bồ Tát
a)Nhất trần bất lập, đắc chân viên thông, hiện tùy loại trục hình chi thân, tầm thanh cứu khổ,
Ngũ uẩn giai không, chứng đại tịch diệt, y tức tâm tự tánh chi đạo, thuyết pháp độ sanh.
(Mảy trần chẳng lập, đắc chân viên thông, tùy loại theo hình hiện thân, tầm thanh cứu khổ,
Ngũ uẩn đều không, chứng đại tịch diệt, nương đạo tự tánh nơi tâm, thuyết pháp độ sanh)
b)Vân khởi từ môn, mẫn bỉ mê tình bất dị ngộ,
Ba đằng nguyện hải, lân y Phật tánh liễu vô thù!
(Mây dấy cửa từ, thương lũ mê tình chưa dễ ngộ,
Sóng trào biển nguyện, xót thay Phật tánh khác chi đâu)
c)Từ bi tâm thiết, tuy cứu khổ dĩ tầm thanh, thường trụ Lăng Nghiêm đại định,
Dữ bạt tình ân, túng đậu cơ nhi thuyết pháp, viên chương tịch diệt chân tông.
(Tâm từ bi tha thiết, tuy hay cứu khổ tầm thanh, vẫn thường nhập Lăng Nghiêm đại định,
Lòng cứu vớt ân cần, dẫu thuận căn cơ thuyết pháp, cứ trọn bày tịch diệt chân tông)
d)Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, thuyết pháp độ sanh, thụ cùng tam tế
Chứng cực nhất thừa thật tướng, tầm thanh cứu khổ, hoành biến thập phương
(Soi thấy năm uẩn đều không, thuyết pháp độ sanh, dọc cùng tột ba đời,
Chứng cực nhất thừa thật tướng, tầm thanh cứu khổ, ngang trọn khắp mười phương)
e)Thệ nguyện hoằng thâm, xứ xứ hiện thân thuyết pháp
Từ bi quảng đại, thời thời cứu khổ tầm thanh
(Thệ nguyện rộng sâu, chốn chốn hiện thân thuyết pháp
Từ bi rộng lớn, luôn luôn cứu khổ tầm thanh)
f)Pháp pháp viên thông, cố danh Tự Tại
Đầu đầu hợp đạo, nhân hiệu Phổ Môn
(Pháp nào cũng viên thông, cho nên tên Tự Tại,
Chuyện gì thảy hợp đạo, bởi vậy hiệu Phổ Môn)
g)Từ khởi vô duyên, ân châu thứ loại,
Bi hưng đồng thể, đạo khải đa môn
(Dấy lòng từ vô duyên, rộng ban ân muôn loại,
Vận lòng bi đồng thể, mở mối đạo nhiều môn)
11. Câu đối tán dương Thế Chí Bồ Tát
a)Bổn nguyện bất vi, nhiếp niệm Phật nhân quy Tịnh Độ,
Phân thân vô lượng, cư Cực Lạc quốc biến thập phương
(Chẳng trái bổn nguyện, nhiếp người niệm Phật sanh về Tịnh Độ,
Phân thân vô lượng, ngự cõi Cực Lạc trọn khắp mười phương)
b)Đô nhiếp lục căn, hoạch đại tịch diệt,
Đơn đề nhất niệm, chứng chân viên thông.
(Nhiếp trọn sáu căn, đắc đại tịch diệt,
Chỉ khởi một niệm, chứng chân viên thông)
c)Dĩ trí huệ quang, phổ chiếu nhất thiết,
Thừa viên thông đạo, quảng độ chúng sanh.
(Dùng trí huệ quang chiếu khắp hết thảy,
Nương viên thông đạo rộng độ chúng sanh)
12. Câu đối tán dương Bồ Tát
Chứng chư Phật bổn diệu giác tâm, tùng tư an trụ Tịch Quang, hưởng chân thường chi pháp lạc,
Mẫn chúng sanh mê Như Lai tạng, cố phục hiện thân trần sát, tác đắc độ chi nhân duyên
(Chứng tâm vốn diệu giác của chư Phật, từ đấy an trụ Tịch Quang hưởng pháp lạc chân thường,
Thương chúng sanh mê tạng tánh Như Lai, nên lại hiện thân trần sát làm nhân duyên đắc độ)
13. Câu đối đề Phật điện
Minh hiển hàm gia, ân du phụ mẫu
Thánh phàm phổ lợi, đức mại khung thương
(Ngầm lẫn hiển đều gia hộ, ân hơn cha mẹ,
Thánh cùng phàm đều lợi khắp, đức quá trời cao)
14. Câu đối tán dương đức Vi Đà hộ pháp
Bồ Tát hóa thân, phụ chánh tồi tà hoằng thánh giáo,
Đồng chân nhập đạo, an bang hộ quốc, độ quần mê.
(Bồ Tát hóa thân, giúp chánh dẹp tà, hoằng dương thánh giáo,
Đồng chân nhập đạo[7], yên cõi vững bờ, rộng độ quần mê)
15. Câu đối tán dương Vi Đà Bồ Tát ở Phổ Đà
Hộ pháp an tăng, tỉ hữu tình cộng nhập Phổ Môn, mãn Quán Âm nguyện,
Hàng ma chế ngoại, linh hàm thức tề đăng giác ngạn, toại Thiện Thệ tâm
(Hộ pháp, giữ yên Tăng chúng, mong hữu tình cùng nhập Phổ Môn, thỏa tâm đức Quán Âm,
Hàng ma, chế phục ngoại đạo, khiến hàm thức đều lên bờ giác, toại lòng đấng Thiện Thệ[8])
16. Câu đối tán dương Thiên Vương ở Phổ Đà
Xí từ vân phổ phú trần hoàn, dĩ thiên vương thân tác Như Lai sứ,
Kỳ pháp vũ quân triêm sa giới, hiện đại nhân tướng trấn viên thông tràng.
(Ngóng mây từ che khắp trần hoàn, dùng thân thiên vương làm sứ giả Như Lai,
Mong mưa pháp thấm đều sa giới[9], hiện tướng đại nhân trấn đạo tràng viên thông)
17. Câu đối tán dương Quan Đế
Hạo khí xung thiên, ngưỡng hiệu nghĩa thiên chi phú tý
Tinh trung quán nhật, thường tùy Phật nhật dĩ chiêu chương
(Hạo khí ngút trời cao, kính học Nghĩa Thiên[10]thường che chở,
Tinh trung lòa nhật nguyệt, thường nương Phật nhật rạng phô bày)
18. Câu đối đề Phật điện
Hạnh mãn quả viên, đạo tam thừa dĩ tề thành giác đạo,
Bi thâm nguyện trọng, chửng tứ sanh nhi cộng giới liên bang
(Hạnh mãn quả viên, dẫn tam thừa đều thành giác đạo,
Bi sâu nguyện nặng, độ tứ sanh cùng đến liên bang)
19. Câu đối tán dương tượng Quán Âm được thờ tại giếng Tiên Nhân thuộc Phổ Đà
Bi nguyện hoằng thâm, cố tùng cá lý dũng cam lộ,
Từ ân hạo đãng, trí sử hoàn khu tận kiệt thành
(Bi nguyện rộng sâu, nên từ chốn này vọt lên cam lộ,
Từ ân lồng lộng, khiến khắp trần gian cạn tấc lòng thành)
20. Câu đối đề tại điện Phật
Giáo diễn Thiên, Viên, thống cửu giới nhi tề độ,
Đức toàn phước huệ, siêu Thập Địa dĩ độc tôn.
(Giáo giảng Thiên, Viên, độ trọn khắp chín giới,
Đức tròn phước huệ, độc tôn hơn Thập Địa)
21. Câu đối tại Trí Tích Điện ở Linh Nham Sơn
Chứng Pháp Hoa nhi lai Linh Sơn, truy tùy Đa Bảo tháp trung Phật
Hiện sắc thân dĩ y Lục đệ, mẫn niệm Diêm Phù thế thượng nhân
(Để chứng minh pháp hội Pháp Hoa, đến Linh Sơn, theo hầu Phật trong tháp Đa Bảo,
Hiện thân trị bệnh em tể tướng Lục Tượng Tiên, nghĩ thương người đời cõi Diêm Phù)
22. Câu đối tán dương ngài Trí Tích ở Linh Nham
a)Linh Nham linh tích hữu vĩnh phù, túc hiển luân hồi khoáng viễn,
Trí Tích trí mưu khải Lục tướng, dụng chương Phật đạo uyên thâm
(Linh Nham dấu thiêng hãy còn vĩnh viễn, đủ rõ luân hồi xa vời,
Trí Tích khôn khéo khơi gợi Lục tướng[11], nhằm phô Phật đạo thẳmsâu)
b)Thánh đức nan tư, đặc hiện tượng thân thuyết pháp yếu,
Bi tâm vô ký, vĩnh lưu bổn tự tác bình mông
(Thánh đức khó lường, riêng hiển hiện thân tượng nói pháp yếu,
Bi tâm vô ký[12], mãi lưu lại chùa này để chở che)
23. Câu đối đề tại Tàng Kinh Các:
Như Lai quảng vận từ bi, sướng đàm tam tạng thậm thâm chi diệu điển,
phổ sử chúng sanh khai phát Bồ Đề, tiêu dung hoặc nghiệp, đãng hôn mê
nhi phục thường tịch chiếu, nhiếp quả giác nhi tổng tác nhân tâm, trực
đồng lộ trích thương minh, tiện thị uông dương đại hải, chân đào hóa
dục, lợi ích nan danh, ngã bối hân phùng minh hối, cảm bất tốt niên ngột
ngột, y giáo tu hành, triệt để cùng nguyên, ẩm tư nhất vị, tự thử khánh
không hậu tế, đạo oán thân dĩ cộng xuất úy đồ, dụng ký ngưỡng thù phù
Phật lực.
Hoàng đế bất vong phó chúc, ban bố ngũ thời bí mật chi chân
thuyên, tất linh hàm thức văn huân Bát Nhã thanh tịnh căn thân, liễu
quái ngại hề hoạch bổn viên thông, tức phàm tình hề toàn chương thánh
trí, vô dị trần đầu hoa nhạc, đốn thành ngập nghiệp cao sơn, hộ niệm bảo
tuy, công huân võng trắc, ngô sài hạnh ngộ chỉ nam, cố đương chung nhật
càn càn, kiệt thành trì tụng, đăng phong tạo cực, quán bỉ thái hư, do
tư châu biến thập phương, phù bão dữ dĩ tề trăn đạo ngạn, vĩnh kỳ thượng
báo ư quân ân.
(Như Lai rộng mở lòng từ bi, giảng thông suốt diệu điển
Tam Tạng rất sâu, khiến khắp chúng sanh khơi mở Bồ Đề, tiêu tan Hoặc
nghiệp, gột sạch hôn mê, khôi phục tịch chiếu thường hằng, nhiếp quả
giác về trọn nội tâm, hệt như giọt sương rơi vào biển thẳm bèn thành
biển cả mênh mông, un đúc trưởng dưỡng, lợi ích khôn nêu, bọn mình mừng
gặp giáo huấn rạng ngời, dám chẳng quanh năm miệt mài, y giáo tu hành,
thấu đáy tột nguồn, uống một vị ấy, từ đấy rỗng toang hậu tế[13], dẫn
oán thân cùng thoát nẻo đường kinh sợ, hòng cung kính đáp đền Phật lực.
Hoàng đế thường chẳng quên phó chúc[14], ban bố lời chân thuyên năm thời
bí mật, hòng mọi hàm thức nghe tập Bát Nhã, thanh tịnh căn thân, trọn
không vướng mắc, thấu đạt viên thông vốn sẵn, dùng phàm tình trọn nêu
thánh trí, khác gì hạt bụi vun vào Hoa sơn mau thành núi cao ngất
ngưởng, hộ niệm chở che, công huân chẳng xiết, lũ ta may gặp chỉ
nam[15]thông tỏ, ắt nên trọn buổi khăng khăng, kiệt thành trì tụng, tới
ngọn lên đỉnh, thấy thái hư kia, do đây trọn khắp mười phương, ôm giữ
mọi loài cùng ta tới bến đạo, mong vĩnh viễn báo đáp ơn
vua)
24. Câu đối đề pháp đường
Huệ diệm trùng trùng, thước phá thiên niên chi ám thất, Pháp nguyên cổn
cổn, tư sanh ngũ tánh chi linh miêu (Lửa huệ trùng trùng, sáng bừng nhà
tối ngàn năm, Nguồn pháp cuồn cuộn, sanh thành mầm thiêng ngũ tánh)
25. Câu đối đề Tàng Kinh Các
Pháp hải uông dương, thâm thám triệt để chi nguyên, phương khả vị vô cô Phật hóa,
Nghĩa sơn tiêu tuấn, trực thượng tuyệt cao chi đảnh, thỉ kham vân bất phụ kỷ linh
(Biển pháp mênh mông, dò tận đáy nguồn thăm thẳm, mới dám bảo chẳng phụ ơn Phật giáo hóa,
Núi nghĩa vòi vọi, lên thẳng đảnh cao chót vót, mới đáng nói không phụ bạc tánh mình)
26. Câu đối đề tại Phật điện trong Tàng Kinh Các
Phật quang phổ chiếu thập phương giới
Pháp vũ quân tư ngũ tánh căn
(Phật quang chiếu khắp cõi nước mười phương,
Mưa pháp thấm đều căn cơ ngũ tánh)
27. Câu đối đề Tàng Kinh Các
Ngũ thời ngôn giáo, phi dị phi đồng, vị Thật thi Quyền, khai Quyền hiển Thật, hữu như hải dựng bách xuyên, xuyên phó hải,
Tam thừa đế lý, tức đa tức nhất, do tánh hiện tướng, nhiếp tướng quy tánh, trực tự không hàm vạn tượng, tượng y không.
(Năm thời ngôn giáo, chẳng khác, chẳng
đồng, vì Thật bày Quyền, mở Quyền hiển Thật, dường biển cả chứa đựng
trăm sông, sông xuôi về biển,
Ba thừa đế lý, vừa nhiều vừa một, do tánh
hiện tướng, nhiếp tướng về tánh, hệt hư không bao hàm muôn tượng,
tượng[16]nương hư không)
28. Câu đối đề giảng đường
Pháp hội hoằng khai, giáo hạnh tịnh tấn,
dục đắc thiên cơ phổ dục, lợi độn tề tu, thị cố lược tư thông đồ, biến
sùng đặc biệt, dĩ Hoa Nghiêm viên mãn Bồ Đề chi diệu nhân duy tại đạo
quy Tịnh Độ.
Giảng diên đại khải, lý sự song thuyên,
nghĩ cầu vạn phái triều tông, thánh phàm đẳng ích, do tư giản khứ tự
lực, chú trọng Phật gia, ký Sa Bà cụ túc Hoặc nghiệp chi hàm thức, hiện
sanh đồng phó liên trì
(Pháp hội mở rộng, giáo - hạnh cùng tiến,
muốn lợi khắp ngàn căn cơ, lợi - độn đều tu, vì thế, bỏ qua đường chung,
trọn đề cao pháp đặc biệt, bởi diệu nhân viên mãn Bồ Đề trong Hoa
Nghiêm chỉ nhằm dẫn về Tịnh Độ
Giảng tòa khơi lớn, lý - sự cùng giảng,
toan cầu trọn muôn phái hướng về, thánh - phàm cùng ích, do vậy, lựa bỏ
tự lực, chuyên chú trọng Phật gia hộ, mong hàm thức đầy dẫy phiền nghiệp
tại Sa Bà, đời này cùng đến liên trì)
(Cậy vào tự lực gọi là pháp môn theo đường
lối thông thường, cậy vào Phật lực gọi là pháp môn đặc biệt. Phật Giáo
Tịnh Nghiệp Xã khánh thành giảng đường, sai tôi soạn câu đối, do vậy bèn
nêu bày tông chỉ)
29. Câu đối tại Niệm Phật Đường
a)Hà tất vấn thị thùy, thử đạo ư kim chiêu nhật nguyệt,
Đản năng thường hệ niệm, Phật tâm vô xứ bất từ bi
(Cần gì hỏi là ai[17], đạo này nay đã rạng ngời nhật nguyệt,
Chỉ cần thường hệ niệm, Phậttâm khôngđâu chẳng từ bi)
b)Quyết chí cầu sanh, hiệu tích hiền tương thác tựu thác,
Nhất tâm ức niệm, chí kim nhật nhân vân diệc vân
(Quyết chí cầu sanh, phỏng người hiền thuở xưa đem lầm đáp lạc,
Một lòng nghĩ nhớ, tới nay người nói sao ta cũng nói vậy)
c)Nhân Giới sanh Định, Định - Huệ viên minh Bồ Đề bổn,
Do Giáo nhập Tịnh, Tịnh - Thiền quán triệt giác đạo thành
(Bởi Giới sanh Định, Định - Huệ viên minh là cội Bồ Đề,
Do Giáo nhập Tịnh, Tịnh - Thiền quán triệt thành tựu giác đạo)
d)Lực tu Giới Định Huệ Không tắc vô ngã kiến,
Thường niệm Từ Bi Hỷ Xả phương khế Phật tâm.
(Tận lực tu Giới - Định - Huệ - Không sẽ không ngã kiến,
Thường luôn niệm Từ - Bi - Hỷ - Xả mới hợp Phật tâm)
e)Liễu quân đại sự duy tu tịnh
Sướng Phật bổn hoài tại vãng sanh
(Xong đại sự của ông chỉ có tu tịnh,
Thỏa bổn hoài của Phật ở nơi vãng sanh)
f)Tam nghiệp tương ứng, vãng sanh hữu phần,
Lục căn đô nhiếp, kiến Phật vô nan
(Ba nghiệp tương ứng, vãng sanh có phần,
Sáu căn nhiếp trọn, thấy Phật chẳng khó)
g)Chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không, viễn ly điên đảo mộng tưởng,
Đô nhiếp lục căn tịnh niệm, thượng hợp bổn diệu giác tâm.
(Soi thấy năm uẩn đều không, xa lìa mộng tưởng điên đảo,
Nhiếp trọn sáu căn tịnh niệm, trên hợp giác tâm vốn mầu)
h)Ngũ uẩn giai không, lục căn câu tịch,
Nhất trần bất nhiễm, vạn đức viên chương
(Năm uẩn đều không, sáu căn đều lặng,
Mảy trần chẳng nhiễm, muôn đức trọn bày)
30. Câu đối đề Tam Giáo Đường
Nho Thích bổn đồng nguyên, đạo tịnh hành nhi bất bột,
Nội ngoại nguyên nhất thể, lý giao hiển nhi di chương
(Nho - Thích vốn cùng nguồn, hai đạo cùng hành không chống trái,
Trong - ngoài nguyên một thể, lý rọi lẫnnhauthêm rạng ngời)
31. Câu đối đề tháp viện ngài Vĩnh Minh
Tông kính viên chiếu, vạn thiện đồng quy, bổn giáo nghĩa nhi tục huệ mạng,
Pháp Hoa nhất bộ, Phật sự bách bát, chấn đại cơ dĩ cảnh ngu ngoan.
(Tông kính chiếu trọn, vạn thiện đồng quy, bổn giáo nghĩa nối tiếp huệ mạng,
Pháp Hoa một bộ, Phật sự trăm tám, dấy đại cơ nhắc nhở bướng ngu)
32. Câu đối đề Trí Giả Phường[18]
Giáo phán ngũ thời, hóa nghi hóa pháp song thuyên, Linh Thứu thân thừa chư Thiện Thệ,
Phật minh lục tức, tâm tác tâm thị tịnh xiển, Chi Na hoằng đạo vô nhị nhân.
(Phán định giáo pháp gồm năm thời, hóa nghi, hóa pháp[19]cùng giảng, non Linh Thứu đích thân hầu chư Thiện Thệ,
Giải nghĩa chữ Phật bằng lục tức, “tâm làm, tâm là” đều phô, cõi Trung Hoa hoằng đạo chẳng một ai bằng)
33. Câu đối đề Khổng Thánh Điện
Kế vãng khai lai, đạo thông thiên địa hữu hình ngoại,
Tổ Nghiêu thuật Thuấn, ân biến phi tiềm dị loại trung.
(Kế thừa người trước, khơi lối kẻ sau, đạo thông trời đất vượt ngoài hữu hình.
Sùng phụng đạo Nghiêu, noi giữ phép Thuấn, ân trùm bay lặn trọn khắp muôn loài)
34. Câu đối đề Như Ý Liêu[20]
Vạn đức hồng danh thường ức niệm,
Bách ban huyễn bệnh tự tiêu trừ
(Vạn đức hồng danh thường nghĩ nhớ,
Trăm cơn huyễn bệnh tự tiêu trừ)
35. Câu đối đề Địa Tạng Đàn
Hồng nguyện phát thời, sanh mông độ thoát,
Tôn kinh diễn xứ, tội tự tiêu vong
(Nguyện lớn phát lên, chúng sanh được độ thoát,
Tôn kinh vừa giảng, tội chướng tự tiêu vong)
36. Câu đối đề Pháp Hoa Đàn
Đại sự nhân duyên, đoan quy Thật Tướng,
Nhất thừa nguyên bổn, tại báo thân ân.
(Đại sự nhân duyên, đầu mối quy về Thật Tướng,
Cội nguồn Nhất Thừa tại nơi báo ân mẹ cha)
37. Câu đối đề cửa Tam Quan
a)Kinh thừa Bắc khuyết, Luật xiển Nam Sơn,
tục huệ mạng ư tương lai, trực sử phổ thiên hàm thức đốn minh tịch diệt
chân tâm, thụ cùng tam tế
Đạo kế Tây Càn, tông truyền Đông Chấn,
khai Phật tri ư đương niệm, hàm linh pháp giới hữu tình triệt ngộ viên
thông diệu tánh, hoành biến thập phương.
(Kinh nương cửa Bắc, Luật hoằng non Nam,
nối tiếp huệ mạng tới tận tương lai, khiến hàm thức khắp trời mau tỏ
chân tâm tịch diệt, theo chiều dọc cùng tột ba đời.
Đạo nối trời Tây, tông truyền xứ Đông, mở
bày Phật tri kiến nơi đương niệm, khiến hữu tình pháp giới triệt ngộ
diệu tánh viên thông, theo chiều ngang trọn khắp mười phương)
b)Nghệ Bồ Đề tràng, thú tịch diệt điện,
Đăng viên thông lộ, nhập giải thoát môn.
(Đến Bồ Đề tràng, tới điện tịch diệt,
Lên đường viên thông, vào cửa giải thoát)
38. Câu đối đề vườn rau
Địa tráng thái căn thô, nhân chân quả chánh,
Phấn đa gia tử đại, đức hậu phước long
(Đất phì nhiêu củ mập, nhân chân quả chánh,
Phân mùn nhiều cà to, đức dày phước thịnh)
39. Câu đối đề sân khấu
a)Quyền chế bài trường phù giáo hóa
Xảo thùy minh huấn chấn cương thường
(Phương tiện lập sân khấu để giúp giáo hóa,
Khéo léo nêu minh huấn chấn hưng cương thường)
b)Ngụ bao biếm, biệt thiện ác, khánh ương
phước cực, báo bất sảng ư thục nặc hiền gian, phát quý chấn lung, doãn
tác thiên thu tảo giám,
Phù giáo hóa, chấn cương thường, từ hiếu
nhân trung, nghĩa các tận ư quân thần phụ tử, di phong dịch tục, tuân vi
vạn thế điển hình
(Ngụ ý khen - chê, phân biệt thiện ác,
lành dữ, phước xui, quả báo chẳng sailành - dữ, hiền - gian, chấn động
kẻ đui người điếc, xứng làm gương soi ngàn thu.
Giúp đỡ giáo hóa, chấn chỉnh cương thường,
từ hiếu, nhân trung, tiết nghĩa trọn hết vua - tôi, cha - con, thay đổi
nề nếp phong tục, tuân theo điển hình muôn đời)
c)Điển hình thị bỉ tương lai, tỉ cuồng phu khắc niệm tác thánh,
Gian du tru ư dĩ vãng, thứ tiềm đức đại phát u quang
(Nêu bày gương mẫu cho tương lai khiến kẻ cuồng khắc niệm thành thánh,
Giết lũ gian nịnh trong quá khứ hòng đức ngầm tỏa rạng u quang)
40. Câu đối tại cửa Tam Quan am Pháp Như
Pháp đạo u thâm, trực nhập viên thông diệu cảnh,
Như môn quảng đại, toàn chương tịch chiếu chân tông.
(Pháp đạo thẳm sâu, vào thẳng viên thông diệu cảnh,
Như môn rộng lớn, trọn bày tịch chiếu chân tông)
41. Câu đối mừng lễ truyền giới
Trương giới võng dĩ chấn tông phong, nhị đế viên minh, thành túc truy tung vãng triết,
Bố từ vân nhi giáng pháp vũ, tam căn phổ bị, doãn kham di phạm hậu côn.
(Căng lưới giới để rạng tông phong, nhị đế[21]viên minh, thật đáng noi dấu hiền nhân thuở trước,
Bủa mây từ hòng tưới mưa pháp, ba căn trọn độ, quả xứng nêu gương hậu học mai sau)
42. Câu đối về khóa giảng Thiền Lâm Bảo Huấn
Lãm kính tri tàm hoằng bảo huấn,
Quy kim sư cổ chấn thiền lâm
(Soi gương biết thẹn hoằng dương bảo huấn,
Sửa nay noi cổ[22]rạng rỡ thiền lâm[23])
43. Câu đối viếng pháp sư
a)Dĩ cầu sanh đắc cố hương chi phong nguyệt, sanh bổn vô sanh, vô sanh nhi sanh, sanh ư vô sanh chi Tịnh Độ
Dĩ thị diệt tác hiểm đạo chi đạo sư, diệt thật bất diệt, bất diệt nhi diệt, diệt ư bất diệt chi uế bang
(Lấy cầu vãng sanh để được cảnh gió trăng quê cũ, sanh vốn chẳng sanh, vô sanh nhưng lại sanh, sanh về nơi Tịnh Độ vô sanh,
Dùng hiện tịch diệt để làm đạo sư nơi đường hiểm, diệt thật bất diệt, bất diệt mà vẫn diệt, diệt nơi cõi uế chẳng diệt)
b)Viên mãn Bồ Đề, thường quang hiện xứ huyễn duyên diệt,
Trang nghiêm Tịnh Độ, bổn hữu triệt thời chân trí sanh.
(Viên mãn Bồ Đề, thường quang hiển hiện, huyễn duyên diệt,
Trang nghiêm Tịnh Độ, bổn hữu tỏ rồi, chân trí sanh)
44. Câu đối mừng thọ năm mươi tuổi
Hiệu Bá Ngọc chi tri phi, ngũ thập niên khiên vưu, tùng tư tận sám,
Sư Trọng Ni chi lập mạng, bách thiên thế ý phạm, vĩnh dụng tuân hành
(Phỏng Cừ Bá Ngọc biết sai, tội lỗi suốt năm chục năm, từ đây sám sạch,
Noi Khổng Trọng Ni lập mạng, hạnh đẹp cả trăm ngàn đời, vĩnh viễn tuân hành)
45. Câu đối viếng vị giảng sư chuyên giảng Lăng Nghiêm
Hội ấm nhập giới nhi đầu đầu hợp đạo, sổ thập niên giáo nghĩa tông phong, đồ thành cảnh ngưỡng,
Mẫn căn trần thức nhi pháp pháp quy chân, nhất sát na nhân viên quả mãn, vĩnh tác tân lương
(Gom ấm - nhập - giới, chuyện gì cũng đều hợp đạo, mấy chục năm giáo nghĩa tông phong, thật đáng ngưỡng mộ,
Diệt căn - trần - thức, pháp nào tất thảy quy chân, một sát-na nhân tròn quả mãn, mãi là cầu bến)
46. Câu đối mừng thọ
Kỷ lập, lập nhân, thị danh thượng thọ,
Tri phi, phi đoạn, khả vị trưởng niên
(Tự lập, lập người, ấy là thượng thọ,
Biết sai, sai dứt, đáng gọi trưởng niên)
47. Câu đối viếng người tu hành cao tuổi
Thiền tâm hư tịch, tịnh nghiệp tinh thuần, mông Phật tiếp dẫn dĩ vãng sanh, bất uổng sổ thập niên lai cư hải đảo,
Đạo mạo oai lăng, thanh thần trác lạc, linh nhân kính úy nhi cảnh ngưỡng doãn kham thiên bách thế hậu tác điển hình
(Tâm thiền trống lặng, tịnh nghiệp tinh thuần, được Phật tiếp dẫn vãng sanh, chẳng uổng mấy chục năm sống ngoài hải đảo,
Dáng đạo oai nghiêm, lòng thanh siêu việt, khiến người kiêng nể ngưỡng mộ, đáng cho trăm ngàn đời sau noi gương mẫu)
48. Câu đối viếng hòa thượng Ký Thiền chùa Thiên Đồng
a)Truy ức niêm đề, ý chỉ chiêu trước, tất
linh nhận ảnh cuồng đồ tức thời hoàn đắc bổn đầu, khả thán thiên bất giá
niên, trí sử pháp môn vong chỉ trụ.
Mỗi ngâm kệ tụng, thanh vận khanh tương,
phổ tỉ phao gia lãng tử trực hạ đốn khai bảo tạng, kham bi sự vị toại
chí, cự giao hậu tấn thất quy thằng
(Chạnh nhớ niêm đề[24], ý chỉ rành rành,
đều khiến những gã cuồng lầm bóng[25]tức thời nhận biết đầu mình, đáng
than thay, trời không cho sống thêm, khiến cho pháp môn mất đi cột trụ,
Thường ngâm kệ tụng, thanh vận réo rắt,
khiến khắp bọn lãng tử bỏ nhà lập tức mở ngay kho báu, buồn tiếc vậy, sự
nghiệp chưa thỏa chí, đến nỗi hậu học thiếu người uốn nắn)
(Câu đối này người quen biết, pháp tự hay vãn bối đều có thể dùng được)
b)Thập tải trụ Thiên Đồng, hằng dĩ thi ca truyền mật ấn,
Nhất triêu sanh Phật quốc, vĩnh tùy Quán Thế chứng viên thông
(Mười năm trụ Thiên Đồng, thường lấy thi ca truyền mật ấn,
Một hôm sanh nước Phật, mãi theo Quán - Thế[26]chứng viên thông)
49. Câu đối viếng hòa thượng Ký Thiền
a)Giải đồng tễ nguyệt phong quang, thượng
kế Mật Vân chi pháp đạo, phương dục hoằng khai học hội, tiếp dẫn hậu
côn, khải liệu cánh sanh Cực Lạc khắc nhân khứ.
Thi đẳng kim thanh ngọc chấn, vĩnh vi khổ
hải chi từ hàng, thượng kỳ thân chứng viên thông, truy tung tiên giác,
cấp nghi phục nhập Sa Bà liễu nguyện lai
(Giải hệt trăng trong gió mát, kế thừa
pháp đạo của Mật Vân, vừa muốn rộng mở học hội tiếp dẫn đàn em, nào ngờ
đã sanh về Cực Lạc để thỏa cái nhân
Thơ như vàng gieo ngọc chạm, mãi là thuyền
từ trong biển khổ, vẫn mong tự chứng viên thông nối gót tiên giác, gấp
nên quay trở lại Sa Bà hòng thỏa chí nguyện)
b)Thống pháp đạo chi thức vi, phúc uẩn kinh luân, chí đồ khôi phục, viện quan trưởng dĩ tác kim thang, hà ý bán đồ nhi thệ,
Ký tông phong chi phi chấn, tâm huyền tảo giám, khẩu thổ châu ky, xan cức lê dĩ phổ lưu bố, khả vân vĩnh kiếp thường tồn
(Đau vì pháp đạo suy vi, bụng chứa kinh luân, chí mong khôi phục, cậy nhờ quan chức để bảo vệ, nào hay nửa đường khuất bóng,
Mong cho tông phong rạng rỡ, lòng sáng
gương trong, miệng phun châu ngọc, gạt trừ gai góc hòng rộng truyền,
đáng gọi muôn kiếp thường còn)
50. Câu đối viếng hòa thượng Lưu Vân Quán Nguyệt
Ngưỡng thừa sư chí, sáng kiến thiền lâm,
phổ linh tham thỉnh truy lưu đắc dĩ an thân lập mạng, hạnh trị niên cao
đức thiệu, thức phạm hậu côn, hà duyên nguyệt lạc thanh thiên thủy đáo
hải.
Thượng khấu đế hôn, khất ban Long tạng,
tất sử tông giáo khai sĩ nhân tư đạt bổn cùng nguyên, ký kinh chất tạ
thần thiên, thân thị đại giác, đương tất tâm minh lý địa đạo phù không
(Kính vâng chí thầy, tạo dựng thiền lâm,
khiến khắp Tăng nhân tham thỉnh[27]nhờ đó an thân lập mạng, may được
tuổi cao đức trọng, răn nhắc đàn em, duyên chi trăng khuất trời xanh,
nước trôi ra biển?
Tới gõ cửa khuyết, xin ban Long tạng[28],
khiến mọi khai sĩ Thiền Giáo do đây hiểu nguồn tột đáy, đã đành thân trả
hồn dời, hầu hạ Đại Giác, ắt sẽ tâm mờ cõi lý, đạo hợp chân không)
51. Câu đối viếng vị Tăng quen biết sống ở ngôi miếu nhỏ nơi chợ búa
Bản lai diện mục, tức tục hằng chân, phủ hướng bích đàm quán dạ nguyệt,
Tất thế tháo trì, tự thoái thật tấn, đảo kỵ lư tử thượng Lô Sơn,
(Bản lai diện mục, dẫu cõi tục vẫn luôn là chân, dõi nhìn đầm biếc xem bóng trăng đêm,
Suốt đời tu dưỡng, tưởng là lùi thật ra luôn tiến, cưỡi ngược chú lừa[29]trèo lên Lô Sơn)
52. Câu đối của ông Tăng viếng vị đại thương gia hộ pháp
Bạch thủ khởi gia, cư triền vi chánh, sổ
thập niên quảng hành từ tế, đại triển kinh luân, vô biên tế thanh tháo
cao phong, cự liệu đồ thành phù cảnh ngưỡng.
Xích thành hộ pháp, tức tục tu chân, đương
tư thời đốn khí huyễn khu, trực thăng An Dưỡng, tuyệt đối đãi bổn quang
thường thọ, tất tương triệt chứng ư duy tâm
(Tay trắng làm nên, sống trong chợ búa cầm
quyền, mấy chục năm rộng hành từ tế, rộng mở kinh luân, phong thái cao
sạch nào có ngằn mé, đâu mong cầu được ngưỡng mộ,
Lòng son hộ pháp, ngay nơi cõi tục tu
chân, đúng lúc này chợt bỏ huyễn thân, lên thẳng An Dưỡng, quang minh
thọ lượng vốn bặt đối đãi, ắt sẽ triệt chứng duy tâm)
53. Câu đối nhân dịp huyện Định Hải làm lễ tống ôn
Kinh tuyên bí tạng, tống ôn thần tức quy thiên phủ, khởi đồ nhất ấp an khang, túng thuộc lân bang bất vi hác?
Chú tụng chân thuyên, kỳ cát diệu thường chiếu hạ phương, ký tích hạp cảnh phước khánh, kiêm linh thông quốc mộc dung quang.
(Kinh tuyên bí tạng, tiễn ôn thần về ngay thiên phủ, nào chỉ một ấp an vui, còn thì lân bang chẳng được hưởng nhờ?
Chú tụng chân thuyên[30], mong sao lành
thường chiếu hạ phương, mong ban cả vùng phước khánh, kèm thêm cả nước
gội đẫm dung quang)
54. Câu đối tống ôn
Hạ dân bối giác hợp trần, chí sử thiên tai dĩ kiến cáo,
Đại sĩ tầm thanh cứu khổ, nhân lân quỳ khổn chi thành cầu.
(Dân đen trái giác hợp trần, đến nỗi thiên tai thường giáng xuống,
Đại Sĩ tầm thanh cứu khổ, do thương tha thiết[31]chí thành cầu)
55. Câu đối phúng điếu ông Tôn Truyền Phương (viết thay)
Tâm khế chân thường, phổ vị oán thân tu thánh đạo,
Thân thường nghiệp trái, hồn vong nhân ngã quy liên bang
(Tâm hợp chân thường, khắp vì oán thân tu thánh đạo,
Thân đền nợ nghiệp, quên phăng nhân ngã về liên bang)
56. Câu đối tống tiễn thần ôn dịch
Huệ nhật lệ trung thiên, diệt tận ôn dịch chi sương lộ,
Từ vân phú đại địa, tư vinh phước thọ chi căn miêu.
(Huệ nhật rạng giữa trời, trừ sạch sương móc ôn dịch,
Mây từ trùm cõi đất, tốt tươi rễ mầm phước thọ)
57. Câu đối tự khích lệ
a)Tất tương cách trí thành chánh thố kỷ cung, thị chân hào kiệt,
Bất dĩ thân tâm tánh mạng trí độ ngoại, nãi đại trượng phu
(Tận lực thực hiện cách trí thành chánh[32], thật đáng bậc hào kiệt,
Gác bỏ chẳng màng thân tâm tánh mạng, mới xứng đại trượng phu)
b)Nhữ tương tử khoái niệm Phật, tâm bất
chuyên nhất, quyết đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thượng nan cầu, vật
vọng tưởng nhân thiên phước quả,
Nhữ tương tử khoái niệm Phật, chí nhược
chân thành, tiện dự liên trì, Thanh Văn, Duyên Giác do phất trụ, định
khắc chứng đẳng diệu viên thừa
(Ông sắp chết hãy mau niệm Phật, tâm chẳng
chuyên nhất, quyết đọa địa ngục, ngạ quỷ súc sanh còn khó mong cầu, chớ
vọng tưởng quả phước trời người,
Ông sắp chết hãy mau niệm Phật, chí nếu
chân thành, liền dự liên trì, Thanh Văn, Duyên Giác vẫn chẳng muốn trụ,
chắc chắn chứng viên thừa đẳng diệu[33])
c)Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, tâm cảnh câu quyên, trực đồng hạo nguyệt cô viên, quang thốn vạn tượng,
Chứng đáo nhất trần bất lập, trí bi song vận, bất dị hạo thiên hạo đãng, thể phú quần luân
(Soi thấy năm uẩn đều không, tâm cảnh đều mất, hệt như vầng trăng vằng vặc, ánh sáng rọi trùm muôn vật,
Chứng đến mảy trần chẳng lập, trí bi cùng vận, khác nào mặt trời rực rỡ, thể tánh che khắp mọi loài)
d)Niệm Phật phương năng tiêu túc nghiệp,
Kiệt thành tự khả chuyển phàm tâm
(Niệm Phật mới hòng tiêu túc nghiệp,
Kiệt thành sẽ tự chuyển phàm tâm)
e)Bế hộ cự lai nhân, thống niệm tử kỳ tương chí,
Chuyên tâm tu tịnh nghiệp, thâm tàm đạo nghiệp vị thành
(Đóng cửa chẳng tiếp ai, xót nghĩ thân này sắp chết,
Chuyên tâm tu tịnh nghiệp, thẹn thay đạo nghiệp chưa thành)
f)Trác lập bất di, thường sư Khổng thánh,
Hữu phi tất cải, nghi hiệu Cừ hiền
(Kiên quyết chẳng dời, thường tôn thờ Khổng thánh,
Có lỗi bèn sửa, hãy học hạnh Cừ hiền[34])
g)Chứng đạo phương năng siêu lục đạo,
Minh tâm tự khả liễu tam tâm
(Chứng đạo mới hòng siêu lục đạo,
Minh tâm sẽ tự rõ ba tâm)
h)Đạo nghiệp vị thành, cảm sử thử tâm tán loạn,
Tử kỳ tương chí, lực từ nhất thiết ứng thù
(Đạo nghiệp chưa thành, há dám để tâm này tán loạn,
Kỳ chết sắp đến, tận lực từ tạ mọi thù tạc)
i)Duyệt biến trần hoàn nguyên thị huyễn,
Nghiên cùng diệu tánh cấp quy chân
(Xem khắp trần gian đều huyễn ảo,
Xét cùng diệu tánh gấp quy chân)
j)Quả quá vị năng vi ngã hám,
Cư tâm vô ngụy nhậm nhân phi
(Bớt lỗi chưa xong, thường áy náy,
Giữ lòng không dối, mặc người sai)
k)Tri Phật tánh thường, phấn khắc chứng chí,
Tư địa ngục khổ, phát Bồ Đề tâm
(Biết Phật tánh thường hằng, quyết chí chứng đắc,
Nghĩ địa ngục khổ não, phát Bồ Đề tâm)
58. Câu đối khi nhàn rỗi
a)Giải hạnh toàn vô, cảm sung thiên điểu,
Căn thân vị tịnh, miễn hiệu vân ngưu[35]
(Giải hạnh trọn không, nào dám như chim trời,
Căn thân chưa tịnh, gắng bắt chước trâu mây)
b)Vị học nhật ích, vị đạo nhật tổn
Sư hiền tâm thật, sư thánh tâm không
(Vì sự học ngày càng tăng thêm, vì đạo ngày càng bỏ bớt,
Noi theo người hiền tâm thành thật, noi bậc thánh tâm rỗng không)
c)Tuy hữu châu hải kim sơn, bất như tọa tấn thử đạo,
Túng linh phong thiện bái quốc, hà nhược lập vãng Tây Phương
(Tuy có biển ngọc núi vàng, chẳng như tấn tu nơi đạo này,
Dẫu cho lên ngôi dựng nước, nào bằng đứng sanh về Tây Phương)
d)Sự sự lợi nhân, xuất nhĩ phản nhĩ,
Tâm tâm tỉnh kỷ, niệm tư tại tư
(Chuyện chuyện lợi người, ra từ đâu trở về đó,
Tâm tâm xét mình, niệm nơi này nghĩ tại đây)
e)Nhất chế phù tâm thành thiết hán,
Tam giam kỳ khẩu học kim nhân.
(Một phen chế phục tâm, thành gã sắt,
Ba lượt ngậm kín miệng, học người vàng)
59. Câu đối tán dương Phật Dược Sư
Như Lai thệ nguyện hoằng thâm, phổ lợi hữu tình, quả năng tâm vô sở trụ trì hồng danh, tự khả tai biến tiêu tận lục đạo khổ,
Kinh chú oai thần quảng đại, tề tư hàm
thức, nhược khẳng niệm bất phân trì bẩm thánh giáo, định nhiên thọ đắc
diên cập Lưỡng Túc Tôn
(Như Lai thệ nguyện rộng sâu, lợi khắp hữu tình, nếu tâm vô sở trụ trì hồng danh, sẽ tự tiêu sạch tai ương hết khổ lục đạo,
Kinh chú oai thần lớn rộng, giúp trọn hàm
thức, nếu chịu niệm chẳng rong ruổi tuân thánh giáo, chắc chắn hưởng
tuổi thọ dài như đấng Lưỡng Túc)
60. Câu đối đề pháp đường
Vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh
tướng, vô thọ giả tướng, tướng tướng ly tướng, nhi vạn đức viên chương,
cứu cánh thân chứng phù Thật Tướng
Sanh từ tâm, sanh bi tâm, sanh hoan hỷ
tâm, sanh đại xả tâm, tâm tâm ấn tâm, nhi nhất trần bất lập, triệt để
hiển hiện hồ Phật tâm
(Vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng
sanh tướng, vô thọ giả tướng, tướng tướng ly tướng, muôn đức trọn bày,
rốt ráo tự chứng Thật Tướng,
Sanh từ tâm, sanh bi tâm, sanh hoan hỷ tâm, sanh đại xả tâm, tâm tâm ấn tâm, mảy trần bất lập, triệt để hiển hiện Phật tâm)
61. Câu đối về Quán Âm, Địa Tạng
Quán Thế Âm hiện chúng thân dĩ thuyết diệu pháp, tùy trần sát cảm, biến trần sát ứng,
Địa Tạng Vương không địa ngục nhi tận sanh giới, hành Như Lai sự, úy Như Lai tâm
(Quán Thế Âm hiện mọi thân để nói pháp mầu, trần sát cảm bèn ứng khắp trần sát,
Địa Tạng Vương trống địa ngục hòng hết sanh giới[36], làm chuyện Như Lai thỏa tâm Như Lai)
62. Câu đối chúc mừng Công Đức Lâm
Nhục thực nhẫn tâm chiêu kiếp vận,
Tố xan thiện niệm trí thái bình
(Ăn thịt nhẫn tâm chuốc kiếp vận,
Dùng chay thiện niệm dẫn thái bình)
63. Câu đối về Quán Âm, Địa Tạng
Biến pháp giới tầm thanh cứu khổ, tùy loại hiện thân, thủ thôi Phổ Môn đại sĩ,
Cử minh dương hưng từ vận bi, thường thời thùy thủ, mạc quá Địa Tạng nguyện vương
(Khắp pháp giới tầm thanh cứu khổ, tùy loại hiện thân, phải nhường Phổ Môn đại sĩ,
Trọn âm dương hưng từ vận bi, thường luôn xòe tay, ai hơn Địa Tạng nguyện vương)
64. Câu đối chức mừng Công Đức Lâm
Thể càn phụ khôn mẫu chi tâm, vĩnh trừ nhục thực,
Tồn dân bào vật dữ chi niệm, đặc bị tố xan
(Thấu hiểu lòng cha trời mẹ đất, vĩnh viễn thôi ăn thịt,
Vâng giữ niệm dân bào vật dữ[37], riêng sắp đặt món chay)
65. Câu đối tán dương đức Địa Tạng
Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ Đề, miễn dữ lạc bạt khổ chi tâm, cộng tam tế thập hư nhi mạc ký,
Địa ngục dĩ không, thỉ thị thành Phật, tố hưng từ vận bi chi niệm, cử ngũ thừa cửu giới nhi vô di
(Chúng sanh độ hết, mới chứng Bồ Đề, tưởng tấm lòng ban vui dẹp khổ, khắp ba đời mười phương vẫn chưa trọn,
Địa ngục không rồi, mới hiện thành Phật, nghĩ dấy niệm hưng từ vận bi, cả năm thừa chín giới đều chẳng sót)
66. Câu đối về các pháp sâu thẳm như biển
Phật nguyện hồng thâm, phổ bị tam căn, nhân tư cửu giới đồng quy, thập phương cộng tán,
Pháp môn quảng đại, bất di nhất vật, cố đắc thiên kinh tịnh xiển, vạn luận quân tuyên
(Phật nguyện rộng sâu, độ khắp ba căn, do vậy chín giới cùng nương về, mười phương cùng khen ngợi,
Pháp môn bao la, chẳng sót một ai, nên được ngàn kinh đều xiển dương, muôn luận đều tuyên nói)
67. Câu đối giải thích đích xác [ý nghĩa từ ngữ] “cách vật trí tri”
Cách trừ huyễn vọng tư dục vật,
Trí hiển trung dung bỉnh di tri
(Trừ khử vật tư dục huyễn vọng,
Thấu tột luân thường giữ trung dung)
68. Câu đối về ăn chay niệm Phật
Miễn Như Lai mẫn niệm thù ân, thường trì hồng danh, ký lịch kiếp tội khiên do tư tức diệt,
Quán thế nhân nhai xải tất báo, vĩnh đoạn nhục thực, dĩ sát thân oán hận quyết định nan tiêu
(Nghĩ đến ân đức Như Lai sâu xa thương tưởng, thường trì hồng danh hòng diệt ngay tội khiên bao kiếp,
Ngó thấy quả báo người đời chớp mắt phải chịu, quyết không ăn thịt để giải trừ hận giết khó tiêu)
69. Câu đối đề chỗ ăn chay
Thôi ngô nhân ố tử chi tâm, xảo hành cứu tế,
Thể thiên địa hiếu sanh chi đức, vĩnh giới tàn thương
(Suy lòng lũ ta sợ chết, khéo hành cứu tế,
Hiểu đức trời đất hiếu sanh, mãi kiêng sát thương)
70. Câu đối về ăn chay niệm Phật
Khẩu phúc ngộ nhân, xuất nhĩ phản nhĩ kết oán đối,
Phật danh tế thế, niệm tư tại tư dự thánh lưu
(Miệng bụng lầm người, từ đâu ra trở về đó, kết oán thù,
Phật danh cứu đời, niệm từ đâu, nghĩ tại đấy, dự dòng thánh)
Phần chú thích:
________________________________________
[1] Mạnh Sưởng
(919-965) vốn tên là Nhân Tán, tự Bảo Nguyên, là con thứ ba của Cao Tổ
(Mạnh Tri Tường) nhà Hậu Thục (nước Hậu Thục nằm lọt giữa các tỉnh Cam
Túc và Thiểm Tây hiện thời. Tiết Độ Sứ Tây Xuyên là Mạnh Tri Tường nhân
dịp nhà Hậu Đường diệt Tiền Thục, đất nước loạn lạc, bèn chiếm Tây Xuyên
và Đông Xuyên, xưng đế, lập ra nước Thục). Lúc mới lên ngôi, Mạnh Sưởng
chăm lo việc nước, khiến nước Hậu Thục hùng mạnh, bờ cõi mở rộng đến
tận Trường An. Về sau, vua đam mê dục lạc, rượu chè be bét, hoang dâm vô
độ, xa xỉ vô cùng, ngay cả bô đi tiểu cũng chế bằng ngọc quý, do vậy
triều chánh nát bét, cuối cùng nước Hậu Thục bị nhà Bắc Tống diệt vong.
Nhà Tống đem Mạnh Sưởng về giam lỏng tại Biện Kinh, phong tước Tần Quốc
Công. Mạnh Sưởng mất năm Càn Đức thứ ba (965) đời Bắc Tống. Có thuyết
nói Mạnh Sưởng bị Tống Thái Tổ đầu độc chết.
[2] Vân Thê Pháp Vựng là một tác phẩm tổng
hợp các trước tác của đạisư Vân Thê Liên Trì Châu Hoằng, bao gồm ba
mươi mốt tác phẩm. Công trình biên tập này khởi sự từ năm Thiên Khải thứ
tư (1624) với sự tham gia của mười bảy vị danh tăng như Đại Hiền, Đại
Văn, Đại Sâm… và mười sáu vị danh sĩ như Vương Vũ Xuân, Trâu Uông Minh
v.v… biên tập, giảo đính, in khắc ròng rã suốt mười năm mới hoàn thành.
Năm Quang Tự 25 (1891), bộ Vân Thê Pháp Vựng được khắc in lại, bổ sung
thêm những cuốn Vân Thê Di Cảo, Vân Thê Quy Ước, Vân Thê Tháp Kệ Tán
v.v…
[3] Chiết nhiếp: Chiết phục và nhiếp thọ.
[4] Tức Phàm Thánh Đồng Cư Độ.
[5] Ngũ Trụ, gọi đủ là Ngũ Trụ Phiền Não, tức năm thứ căn bản làm nơi nương tựa cho hết thảy phiền não, gồm:
1) Kiến Nhất Thiết Xứ Trụ Địa: gồm những Kiến Hoặc trong tam giới như Thân Kiến v.v…
2) Dục Ái Trụ Địa: tức những phiền não
trong Dục Giới, nhưng không kể Vô Minh và Kiến, bao gồm những phiền não
liên quan đến ngũ dục bên ngoài (sắc, thanh, hương, vị, xúc).
3) Sắc Ái Trụ Địa: gồm những phiền não
trong Sắc Giới, nhưng không kể Kiến Hoặc và Vô Minh, tức những phiền não
do đã lìa bỏ Ngũ Dục nhưng vẫn chấp trước mê đắm nơi sắc thân của chính
mình.
4) Hữu Ái Trụ Địa: gồm hết thảy vô minh
trong Vô Sắc Giới, không tính Kiến Hoặc và Vô Minh, tức những phiền não
do đã lìa bỏ tham sắc nhưng vẫn chấp trước mê đắm nơi sắc thân của chính
mình.
5) Vô Minh Trụ Địa: gồm hết thảy những thứ vô minh.
Nhị Chấp là Ngã Chấp và Pháp Chấp.
[6]Nhị tử: Phần đoạn sanh tử và biến dịch sanh tử.
[7]Đồng chân nhập đạo: xuất gia từ lúc còn thơ ấu.
[8]Thiện Thệ (Sugata), đôi khi còn phiên
âm là Tu Già Đà, Tô Yết Đa, hoặc dịch nghĩa là Thiện Khứ, Thiện Giải,
Thiện Thuyết Vô Hoạn, Thuyết Hảo, Hảo Khứ, là một trong mười hiệu chung
của chư Phật. Danh hiệu này tán dương đức Phật khéo nhập đủ mọi thứ
Chánh Định rất sâu, có vô lượng trí huệ. Danh hiệu Hảo Thuyết hàm nghĩa
đức Phật khéo nói các pháp dựa theo Thật Tướng, chẳng chấp trước pháp
ái, khéo quán biết sức trí huệ của đệ tử để giảng pháp khế cơ, khế lý.
Khi dịch là Thiện Thệ thì có nghĩa là “đúng như thật đến được bờ bên kia
(bờ giải thoát), chẳng còn nổi trôi trong biển sanh tử”. Nói chung,
danh hiệu này nhằm tán dương sự tự tại giải thoát của Phật Quả cũng như
công năng thuyết pháp mầu nhiệm phát lộ từ Phật tánh
[9]Sa giới: Các thế giới số lượng nhiều như cát.
[10]Nghĩa Thiên: nói đầy đủ là Đệ Nhất
Nghĩa Thiên, hay Đệ Nhất Nghĩa Tịnh Thiên, danh xưng để chỉ những vị
Phật, hay nói rộng hơn là các vị Bồ Tát đã trụ Đại Niết Bàn, hoặc hiểu
rộng hơn nữa là các vị Bồ Tát từ Thập Trụ trở lên. Do các vị ấy đã khéo
hiểu các nghĩa, nên ví diệu lý Đệ Nhất Nghĩa như Thiên (theo Pháp Hoa
Huyền Nghĩa quyển 4).
[11] Lục tướng: Tể tướng Lục Tượng Tiên.
[12] Vô ký: Không thiện, không ác.
[13] Hậu tế là một trong Tam Tế, tức Tiền Tế (hay Sơ Tế), Trung Tế, Hậu Tế (chặng đầu, chặng giữa, chặng sau).
[14] Ở đây Tổ nhắc lại chuyện khi Phật sắp nhập Niết Bàn đã phó chúc các hoàng đế hộ trì lưu thông Phật pháp.
[15] Tức kim chỉ nam.
[16] Tượng ở đây là hình bóng, sắc cảnh.
[17] Thiền gia thường dạy tham cứu câu “niệm Phật thị thùy” (người niệm Phật là ai?)
[18] Trí Giả Phường: Đình kỷ niệm tổ sư Trí Giả, tức Trí Khải đại sư.
[19] Đây là hai thuật ngữ
của tông Thiên Thai. Theo Thiên Thai Tứ Giáo Nghi Tập quyển thượng và
Pháp Hoa Huyền Nghĩa quyển 1, Hóa Nghi là những hình thức, phương pháp
nhằm hướng dẫn, chỉ dạy chúng sanh nhập đạo, Hóa Pháp là nội dung của
kinh điển, giáo pháp... Như vậy Hóa Pháp giống như dược tánh, còn Hóa
Nghi giống như các món thuốc. Tổ Trí Giả lập ra thuyết Hóa Nghi Tứ Giáo
(Đốn, Tiệm, Bí Mật, Bất Định) và Hóa Pháp Tứ Giáo (Tạng, Thông, Biệt,
Viên).
[20] Như Ý Liêu chính là
tòa nhà dành cho các vị Tăng nằm dưỡng bệnh ở chùa Pháp Vũ. Xin xem ‘Sớ
quyên mộ xây dựng Như Ý Liêu chùa Pháp Vũ’ trong Ấn Quang Văn Sao Tăng
Quảng Chánh Biên, quyển 2.
[21] Nhị Đế: Chân Đế và Tục Đế.
[22] Noi gương người xưa để sửa đổi chính mình trong hiện tại.
[23] Thiền Lâm Bảo Huấn,
còn có tên là Thiền Môn Bảo Huấn, hoặc Thiền Môn Bảo Huấn Tập, là một
tác phẩm do sư Tịnh Thiện biên soạn vào đời Nam Tống, ghi chép các giáo
huấn của chư tổ sư nhà Thiền đời Tống từ ngài Hoàng Long Huệ Nam đến
Phật Chiếu Chuyết Am, gồm hơn 300 thiên, mỗi thiên đều ghi rõ xuất xứ.
Cuốn sách này vốn do hai vị Diệu Hỷ Thiện Giác và Trúc Am Sĩ Khuê chùa
Vân Môn tỉnh Giang Tây biên soạn, trải qua nhiều năm bị thất lạc phần
lớn. Vào niên hiệu Thuần Hy (1174-1189), ngài Tịnh Thiện bèn biên tập
chỉnh lý thành bộ Thiền Lâm Bảo Huấn như hiện thời.
[24] Niêm Đề: là một
thuật ngữ Thiền Tông, còn gọi là Niêm Cổ, hoặc Niêm Tắc, có nghĩa là
“niêm bình cổ tắc” (chọn ra một câu chuyện cũ để bình giảng). Trong cách
thuyết pháp của Thiền lâm, vị giảng sư nêu lên một câuchuyện xưa, hoặc
mộtcông án để khơi mở tâm địa, chỉ dạy yếu chỉ tông môn cho người học.
Tuy gọi là “bình giảng” nhưng lời giảng thường khiến cho người nghe
hoang mang nhiều hơn, với mục đích thúc đẩy nghi tình để người nghe tự
lãnh ngộ ý chỉ, chứ không dựa theo tri kiến văn tự để giải thích công
án.
[25] Chỉ chàng cuồng Diễn
Nhã Đạt Đa trong kinh Lăng Nghiêm, anh ta soi gương thấy hình bóng cái
đầu của mình hiện trong gương, đâm ra hoảng sợ phát cuồng.
[26] Quán Thế Âm và Đại Thế Chí.
[27] Tham thỉnh: tham vấn, thỉnh đạo.
[28] Càn Long Đại Tạng Kinh.
[29] Cưỡi ngược chú lừa
(Đảo kỵ lư): Ở đây, Tổ nhắc đến điển tích Trương Quả Lão. Trương Quả Lão
không rõ năm sinh và mất, là một trong Bát Tiên, sống vào thời Đường
(vào khoảng đời Đường Cao Tông đến Đường Huyền Tông), là một đạo sĩ nổi
tiếng về thuật luyện đan. Theo thần thoại, ông ta thường cỡi một con lừa
trắng, nhưng ngồi ngược hướng, tức là quay mặt về phía đuôi lừa. Con
lừa ấy mỗi ngày đi được ngàn dặm, không cần ăn uống, khi cần nghỉ ngơi,
chỉ cần vỗ nhẹ vào nó, lừa liền xẹp xuống như một tấm da lừa, khi cần đi
chỉ thổi hơi vào nó lại biến thành con lừa sống như cũ. Do vậy, dân
gian hay dùng tích “cưỡi lừa ngược” để chỉ người thung dung tự tại không
bị ràng buộc trong cõi trần. Ở đây, Tổ dùng điển tích này để khen ngợi
vị sư ấy sống nơi đô hội, chợ búa, vẫn thong dong tu Tịnh nghiệp khác
nào Trương Quả Lão cỡi ngược con lừa dạo chơi khắp chốn.
[30] “Thuyên” có nghĩa là rõ ràng. Do vậy, trong nhà Phật gọi những câu nói giảng giải chân lý là Chân Thuyên.
[31] Nguyên văn “Quỳ
khổn” (tấm lòng tha thiết của hoa Quỳ). Do hoa Quỳ (còn gọi là hoa Hướng
Dương) thường xoay theo hướng mặt trời nên cổ văn thường dùng từ ngữ
này để chỉ lòng tha thiết ngưỡng vọng. Do âm vận bó buộc, chúng tôi đành
tạm dịch gọn là “tha thiết” tuy không đủ ý.
[32] Cách vật, trí tri, chánh tâm, thành ý.
[33] Bình đẳng, vi diệu.
[34] Tức Cừ Bá Ngọc,
người sống cùng thời Khổng Tử, nổi tiếng với câu nói“đến năm tròn năm
mươi tuổi, biết bốn mươi chín năm trước đều sai”.
[35] Vân Ngưu là một loài
vật tưởng tượng. Cổ nhân thường tạc tượng Vân Ngưu có hình dáng một con
trâu hay bò mập mạp, chân ngắn, sừng cong ngắn, cổ bạnh, khắp mình có
những xoáy tròn như mây cuộn, bốn chân có những đám mây nhỏ. Vân Ngưu
tượng trưng cho sự cần cù, kiên quyết.
[36] Sanh giới chính là chúng sanh giới.
[37] Dân bào vật dữ: Nói gọn của câu“Dân thị ngô bào, vật thị ngô dữ”(dân là kẻ ruột thịt của ta, loài vật giống như ta).
Theo: TTPH
Ấn Quang ghi.
Đăng nhận xét