VLCĐ: Xuất phát từ một câu truyện cổ về việc tranh giành đất đai và hoa lợi mùa màng. mong muốn có được một cuộc sống sung túc no đủ nên câu chuyện về dựng cây nêu trong dịp Tết cổ truyền đã trở thành nét văn hóa đặc trưng của dân tộc.
Ở những nơi phồn hoa đô hội, chúng ta hiếm khi thấy được hình ảnh này. Nếu có điều kiện du hành về những làng quê Việt Nam, chúng ta sẽ cảm nhận được hết cái đẹp hết sức bình dị nhưng lại vô cùng thiêng liêng được toát ra từ những sinh hoạt văn hóa thuần Việt trong ngày tết cổ truyền của dân tộc.
Câu chuyện cổ về Sự tích cây nêu như sau: Trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi: Ngày xưa Quỷ chiếm toàn bộ đất nước, còn Người chỉ làm thuê, và nộp phần lớn lúa thu hoạch cho Quỷ. Quỷ ngày càng bóc lột Người quá tay, và cuối cùng Quỷ tự cho mình hưởng quyền "ăn ngọn cho gốc". Người chỉ được hưởng rạ, tuyệt đường sinh nhai nên cầu cứu Đức Phật giúp đỡ. Phật bảo Người đừng trồng lúa mà trồng khoai lang. Mùa thu hoạch ấy, Người được hưởng không biết bao nhiêu củ khoai, còn Quỷ chỉ hưởng lá và dây khoai, đúng theo phương thức “ăn ngọn cho gốc”.
Sang
mùa khác, Quỷ lại chuyển qua phương thức "ăn gốc cho ngọn". Phật bảo
Người lại chuyển sang trồng lúa. Kết quả Quỷ lại hỏng ăn. Quỷ tức lộn
ruột nên mùa sau chúng nó tuyên bố "ăn cả gốc lẫn ngọn". Phật trao cho
Người giống cây ngô (bắp) để gieo khắp nơi. Quỷ lại không được gì, còn
Người thì thu hoạch cơ man là trái ngô. Cuối cùng Quỷ nhất định bắt
Người phải trả lại tất cả ruộng đất không cho làm rẽ nữa.
Phật bàn với Người điều đình với Quỷ, xin
miếng đất bằng bóng chiếc áo cà sa treo trên ngọn cây tre. Quỷ thấy
không thiệt hại gì nên đồng ý. Khi đó Phật dùng phép thuật để bóng chiếc
áo cà sa đó che phủ toàn bộ đất đai khiến Quỷ mất đất phải chạy ra biển
Đông.
Do mất đất sống nên Quỷ huy động quân vào
cướp lại. Trận đánh này bên Quỷ bị thua sau khi bị bên Người tấn công
bằng máu chó, lá dứa, tỏi, vôi bột... và Quỷ lại bị Phật đày ra biển
Đông. Trước khi đi, Quỷ xin Phật thương tình cho phép một năm được vài
ba ngày vào đất liền viếng thăm phần mộ của tổ tiên cha ông. Phật thương
hại nên hứa cho.
Do đó, hàng năm, cứ vào dịp Tết Nguyên đán
là những ngày Quỷ vào thăm đất liền và người ta theo tục cũ trồng cây
nêu để Quỷ không bén mảng đến chỗ Người cư ngụ. Trên nêu có treo khánh
đất, có tiếng động phát ra khi gió rung để nhắc nhở bọn Quỷ nghe mà
tránh. Trên ngọn cây nêu còn buộc một cành đa mới hái để cho Quỷ sợ.
Ngoài ra, người ta còn tùy phong tục người ta vẽ hình cung tên hướng mũi
nhọn về phía đông và rắc vôi bột xuống đất trước cửa ra vào trong những
ngày Tết …để cấm cửa Quỷ
Cây nêu trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam có đặc điểm khá đa dạng tùy thuộc địa phương, phong tục, dân tộc,
giai cấp xã hội v.v. Có cây nêu mang tính nguyên sơ, không gắn liền với
lễ hội mà hình thức cổ xưa nhất còn thấy ở cộng đồng người nông dân, với
tục dùng cành tre dài cắm trên ruộng sau khi gặt. Khi thấy dấu hiệu
này, người ta biết là chủ ruộng giữ lại mầm lúa cho mùa năm sau, không
thể tuỳ tiện thả trâu bò vào ăn. Riêng đối với dân tộc thiểu số, cây nêu
loại này xuất hiện ở những vùng rẫy thuộc sở hữu cá nhân chưa khai
hoang. Người chủ rẫy tìm bốn cây cao to, chặt đứt ngang thân, dựng ở bốn
góc rẫy như bốn cái trụ và gọi đó là cây nêu…
Những cây nêu gắn liền với các lễ hội như
ngày Tết, hội làng, có hình thức cầu kỳ hơn. Cây nêu thường sử dụng một
số loại cây họ tre như tre, bương, lồ ô, có độ cao khoảng 5-6 mét, chặt
sạch các nhánh và lá tre, chỉ để lại trên ngọn tre có nhánh lá. Trên
ngọn cây treo một vòng tròn nhỏ, vòng tròn này buộc nhiều thứ khác nhau
(tùy phong tục địa phương) như: lá phướn, chiếc khánh (chuông gió) để
những khánh đó va đập nhau kêu leng keng trong gió. Chiếc khánh, đồng âm
với “khánh” có nghĩa là “phúc”: năm mới đem lại hạnh phúc cho gia đình…
Cây Nêu truyền thống của đồng bào Tây Nguyên. |
Cây nêu được dựng vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch, là ngày Táo quân về trời, với quan niệm rằng từ ngày 23 cho tới
đêm giao thừa, vắng mặt Táo công, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về
quấy nhiễu. Ngày dựng cây nêu gọi là thượng nêu, và ngày 7 tháng giêng
âm lịch, làm lễ hạ nêu.
Ngày xưa cây nêu được dựng với ý nghĩa trừ
ma quỷ, nhưng ý nghĩa thực của cây nêu trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam trải rộng hơn. Theo thời gian, cùng với sự phong phú của các lễ vật
treo trên ngọn cây, cây nêu được coi là cây vũ trụ nối liền đất với
trời, do tín ngưỡng thờ thần mặt trời của các dân tộc cổ sơ, hàm chứa ý
thức về lãnh thổ của người Việt Nam. Dựng nêu ngày Tết bao gồm trong nó
cả các dụng ý để trừ ma, quỷ, thờ phụng thần linh và vong hồn tổ tiên,
tảo trừ những điều xấu xa của năm cũ. Trong xã hội thị tộc, chiếm hữu nô
lệ thì cây nêu biểu trưng cho một cộng đồng tộc người, khẳng định địa
vực cư trú của cộng đồng đó. Trong các lễ hội, cây nêu là tiêu điểm tập
trung, cố kết của tâm thức cộng đồng. Ðối với người nông dân, nông lịch
luôn gắn bó với cuộc sống, định hình thời vụ sản xuất và sinh hoạt, lễ
hội. Thời điểm cuối năm là lúc nông nhàn, chuẩn bị bước vào các hoạt
động vui chơi. Khi cây nêu được dựng lên, tất cả mọi hoạt động khác đều
dừng lại. Nó tạo nên thế cân bằng tuyệt đối trong sự vận hành thay đổi
giữa năm cũ và năm mới. Con người yên tâm vui chơi, cả cộng đồng sinh
hoạt vui vẻ, quên đi những vất vả, nhọc nhằn của năm cũ.
Ngày xưa, cây nêu là biểu tượng cho sự uy
quyền, nhà nào có quyền thế nhất là nhà đó cây nêu cao nhất. Gần đây,
phong tục trồng cây nêu ngày Tết đã dần mất đi trong cộng đồng người
Việt Nam thời hiện đại, và được thay thế với tục chơi cành hoa đào, hoa
mai ngày Tết. Cây nêu chỉ còn bắt gặp tại các chùa, đình, một số vùng
quê. Hiện nay, những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc dần dần
được phục hồi, trong những năm gần đây cây nêu được dựng lên tại các
chùa, đình, khu du lịch, các trung tâm văn hóa, công ty… thể hiện chủ
quyền của nền văn hóa truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam mãi mãi
không bao giờ mất. Đặc biệt, cây nêu còn được coi là cây vũ trụ - nối
liền Đất với Trời. Tán tròn bằng giấy đỏ tượng trưng cho Mặt Trời và
ngọn nêu là nơi chim thần (sứ giả của Mặt Trời) đậu. Cuối năm trồng cây
nêu để đầu năm ngọn nêu vươn lên cao đón ánh nắng xuân, sức sống xuân,
để cầu cho mọi người mãi mãi một mùa xuân…
Cây nêu của dân tộc Việt Nam còn mang
triết lý âm dương, được biết qua hai chữ Càn (Trời) và Khôn (Đất) nằm
trong hình ảnh cái nón và cây gậy của Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Nó bao
hàm sự thống nhất và tương trợ giữa Âm và Dương hay sự không tách rời
giữa Động và Tĩnh…
NNC Trí Bửu
Đăng nhận xét