Qua hàng ngàn năm Lịch sử của Dân tộc, hơn 2000 năm có mặt trên đất nước, Phật giáo đã đóng góp cho Tổ quốc một thời gian dài trên dưới 400 năm an bình thịnh vượng, chưa nói đến những thời đại riêng lẻ ngắn ngủi.
Những nhân vật lịch sử đó, rải rác trên những trang Quốc sử và Giáo sử, nhưng chưa được kêt tập cho hậu học hình dung tổng quát theo chiều dài lịch sử.
Với yêu cầu củaa một số người có tâm đạo với Phật giáo, có thiện chí với xã hội, có lòng hộ quốc an dân với đất nước, muốn những nhân vật lịch sử vừa có công với đời vừa phát huy truyền thống đạo Phật được liệt kê qua vài trang tổng quát, dĩ nhiên chưa thể đầy đủ, nhưng vẫn nêu lên được hình ảnh những nhân vật kiệt xuất từ xưa đến cận đại. Nay xin giới thiệu tập sách mỏng này như một món quà để người Phật tử có điều kiện biết và ghi ân tiền hiền liệt tổ của chúng ta.
LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM
LỜI ĐẦU
Huyền sử con Rồng cháu Tiên thoát thai từ
trăm trứng, 50 con xuống biển, 50 con lên núi để dân tộc mãi mãi là biểu
tượng phân ly, trong tôn giáo và trong bất cứ tổ chức nào một khi đã
hình thành.
Cũng từ con Rồng cháu Tiên đã phát sanh
lắm anh tài, thông minh và thao lược. Hàng ngàn năm bia sử, vô số tài
năng xuất chúng đóng góp cho quê hương trong nhiều lãnh vực, nhưng những
bậc anh minh vừa có công dựng nước, chống ngoại xâm, vừa chăm lo cuộc
sống cho dân chúng về vật chất lẫn tâm linh thì chỉ đếm trên đầu ngón
tay. Tuy nhiên, những bậc xuất chúng như thế, lịch sử Việt Nam ta đã đậm
nét ghi công, cho dù thời gian và thể chế khác nhau, cũng không thể xóa
mờ hào quang một thời của những bậc anh kiệt như thế.
Việt sử cũng như giáo sử, các nhân vật
lừng danh, đấu tranh chống ngoại xâm, chấn hưng Phật giáo không thiếu.
Nhiều điểm son hàng ngàn năm qua chưa phai nhòa, lưu lại cho con cháu
một dấu ấn lịch sử để hãnh diện và tiếp bước cha ông đến hôm nay.
Tuy vậy, những danh nhân vừa mang giòng
máu Lạc Việt, vừa thấm đượm tinh thần Phật học, hòa quyện Phật học với
xã hội, vừa thi triển nhiệm vụ bảo vệ đất nước vừa chấn hưng đạo đức tín
ngưỡng trên đôi vai gánh nặng xã tắc và tâm linh, là bậc hy hữu đối với
một dân tộc nhỏ bé như đất nước ta vào những thế kỷ xa xưa. Con cháu
chúng ta không được phép xao lãng, có bổn phận phải ghi ân, tưởng nhớ
những hiền nhân Thánh trí đó, nuôi dưỡng hào khí dân tộc để tự đứng trên
đôi chân mà dũng tiến.
Rất nhiều những nhân vật có công với tổ
quốc nhưng không liên can gì đến đạo Phật, cũng không ít các bậc chân sư
hiền tài trong Phật giáo mà không đóng góp mở mang phát triển đất nước,
làm rạng danh đôi bề, vì thế, những trang sử sau đây nêu lên những nhân
vật lịch sử vừa sáng danh đạo vừa hiển hách với đất nước, hẳn nhiên
chưa được đầy đủ, nhưng cũng góp một phần nhỏ cho đàn hậu học sưu tầm.
MỐC LỊCH SỬ
Lịch sử khai quốc từ 18 đời vua Hùng, cho
dù mang tính huyền thoại nhưng là một hào khí linh kiệt kéo dài suốt
thời lập quốc, mở mang bờ cõi đến bảo vệ lãnh thổ, luôn là những vầng
hào quang của dân tộc. Một loại hào quang không tự khiên cưỡng cố tạo mà
là một thực lực thể hiện bản chất nghị lực và tài năng của một dân tộc:
đó là hồn thiêng sông núi thẩm thấu vào máu huyết của một dân tộc nhỏ
bé nhưng kiên cường trước bao sức mạnh của kẻ xâm lăng. Mãi gần 5.000
năm qua, vẫn hiên ngang nằm một góc nhỏ trên bản đồ thế giới.
TRIỆU ĐÀ VÀ SĨ NHIẾP
(Đời thứ 10, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Vị thế văn hoá-chính trị như một nhà
lãnh đạo Phật giáo của Sĩ Nhiếp đã trở thành vị thế văn hoá-chính trị
của những vị minh quân-anh hùng dân tộc đã khai sáng những thời đại độc
lập và vinh quang cho đất nước Việt Nam, từ Lý Nam Đế, Ngô Quyền, Đinh
Bộ Lĩnh, Lê Hoàn đến Lý Công Uẩn, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, và các
chúa Nguyễn trong buổi đầu lập quốc và dựng nước ở Đàng Trong, như
Nguyễn Hoàng (chúa Tiên), Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Sãi), Nguyễn Phúc Lan
(chúa Hiền), Nguyễn Phúc Tần (chúa Nghĩa), Nguyễn Phúc Chu (xứng đáng
để được tôn vinh là chúa Phật).
Nguyễn Phúc Chu là người đã đúc đại hồng
chung nặng 3.285 ký ở chùa Linh Mụ và tự tay viết lời chú được khắc
trên chuông: ta không muốn gì cho ta, cho triều đại ta, ta chỉ muốn mưa
thuận gió hoà, quốc gia thái bình, nhân dân an lạc và tất cả mọi người
đều thành Phật: “Quốc Chúa Đại Việt Nguyễn Phước Châu, nối dòng phái
Thiền Tào Động chánh tông, đời thứ 30, pháp danh Hưng Long, đúc đại hồng
chung cân nặng 3.285 cân, an trí ở chùa Linh Mụ, để vĩnh viễn cung
phụng Tam Bảo, chú nguyện mưa hoà gió thuận, quốc thái dân an, chúng
sanh trong pháp giới đều thành đại viên chủng trí. Năm Vĩnh Thịnh thứ
sáu, ngày Phật đản tháng tư năm Canh Dần (1710)”.
Ðây quả thực là lời
chú nguyện tuyệt vời của một vị quân vương Phật tử nhiệt thành, gương
mẫu, siêu hùng. Tương tự, giáo sư Lê Mạnh Thát cũng khẳng định trong tác
phẩm nghiên cứu về Mâu Tử: từ thế kỷ thứ hai, nghĩa
là cách đây hơn 1.800 năm, Việt Nam đã có một chính quyền độc lập, và
đây cũng là chính quyền mang đậm màu sắc Phật giáo, lấy Phật giáo làm
chủ đạo văn hoá-chính trị của thời đại.
Nhiều người tưởng Sĩ Nhiếp là người Hoa. Thật
ra, ông là người Việt 100%. Tổ tiên lâu đời của ông là người Tàu, gốc ở
nước Lỗ, trong thời gian Vương Mãn cướp ngôi nhà Hán, vào đầu thế kỷ
thứ nhất, mới sang Giao Chỉ lánh nạn và định cư hẳn ở nước ta, tại đất
Quảng Tín, thuộc quận Thương Ngô, như một di dân. Đến đời thân phụ Sĩ
Nhiếp là sáu đời, và đến đời Sĩ Nhiếp, vào cuối thế kỷ thứ hai, là đời
thứ bảy, tổng cộng gần 200 năm.
Triệu Đà là người Hoa 100%, nhưng chỉ
vì ở lâu năm trên đất Việt, lấy vợ Việt, bị thu hút bởi nét quyến rũ của
đất phương Nam, nên được Việt hoá và thành Việt 100% về văn hoá, ứng
xử. Người Tàu miệt thị gọi dân Việt là Nam di, là người mọi rợ phương
Nam, thì Triệu Đà, tức Nam Việt Vũ Đế, hay Nam Việt Vương, một người
sống thọ đến 121 tuổi và làm vua hơn 70 năm, đã tự xưng là “Nam di đại
trưởng lão” trong thư trả lời Hán Vũ Đế. Con cái của những người Hoa di
dân này, chỉ một đời, đã thành Việt, nói gì đến đời thứ bảy, vì hầu như
tất cả người Hoa kiều đều lấy vợ Việt nên con cái của họ được Việt hoá
rất nhanh. Sĩ Nhiếp đã trải qua bảy đời nên dứt khoát ông là người Việt,
cũng giống như trường hợp của Lý Bí (tức Lý Nam Đế) hay Hồ Quý Ly và
rất nhiều danh nhân người Việt gốc Hoa khác mà tổ tiên đã định cư lâu
đời ở Việt Nam. Ðó cũng là lý do mà học giả Taylor đã dùng từ những “đại
gia đình Việt-Hán”.
Sĩ Nhiếp tự là Uy Ngạn, sinh năm 137,
mất năm 226. Cha là Sĩ Tứ thời Hán Hoàn Đế (147-167) từng được cử làm
thái thú quận Nhật Nam, ở miền cực Nam của Giao Chỉ. Ông là một sinh
viên xuất sắc và được gởi đi học ở Trường An, kinh đô nhà Hán.
Ở đó ông
đã đỗ bằng hiếu liêm, và được bổ làm thượng thư lang. Sau khi đỗ bằng
mậu tài, ông được bổ làm thái thú quận Giao Chỉ. Ở kinh sư Trường An,
ông học với thầy Lưu Đào, người đất Dĩnh Xuyên, chuyên nghiên cứu về Tả
Thị Xuân Thu. Sau thành tài trở về quê nhà xứ Việt, được bổ nhiệm đứng
đầu quận Giao Chỉ, là quận đông dân nhất, quan trọng nhất, ở vị thế
trung tâm của toàn cõi Giao Chỉ bộ, mà Thương Ngô, nơi ông sinh ra, và
Nhật Nam, nơi cha ông từng làm thái thú, là hai vùng ngoại biên, phụ
thuộc và quy hướng về. Không những là một nhà cai trị cao cấp, ông còn
là một học giả và tác giả tên tuổi: “Việc quan chút rảnh, liền xem thơ
truyện, Xuân Thu Tả Thị truyện lại càng luyện cứu tinh vi... nghe các
học giả cổ và kim văn ở kinh đô cãi nhau phải trái quyết liệt, nay muốn
liệt kê trường nghĩa của Thượng Thư và Tả Thị để dâng lên...”. Ông xuất
hiện như một quân vương-triết gia (philosopher-king), một lý tưởng lâu
đời của chính trị Tây phương.
Như thế, ta thấy Sĩ Nhiếp được tiếp
thu nền học vấn chính quy, tinh hoa từ thủ đô Trung Hoa và đạt đến mức
cao cấp của nền giáo dục Nho học này. Không những thế, ông còn nghiên
cứu sâu rộng về học thuật, tư tưởng, lịch sử, chính trị Trung Hoa, và
viết sách diễn giảng, bình luận những vấn đề triết học, lịch sử, chính
trị đương thời. Xem như thế đủ rõ là vào thế kỷ thứ 2, thứ 3, người Việt
đã đạt đến trình độ học vấn, bằng cấp, trí tuệ không thua kém gì người
Hán, cũng như đã có khả năng và được cử vào những chức vụ cao cấp. Trước
Sĩ Nhiếp, đã có Lý Tiến, một người Việt, được cử làm thứ sử Giao Chỉ
bộ, Lý Cầm được cử làm quan tư lệ hiệu úy, Trương Trọng làm thái thú
Kinh Thành ...
Sĩ Nhiếp là nhà lãnh đạo thành công
nhất ở nước ta trong thời Bắc thuộc. Theo truyện Sĩ Nhiếp của Ngô Chí
thì: “Nhiếp tính khoan hậu… sĩ nhân Trung Hoa đến tị nạn lên đến số
trăm”. Theo Mâu Tử, vào cuối thế kỷ thứ hai, sau khi Hán Linh Đế băng hà
năm 189: “Thiên hạ nhiễu loạn, chỉ Giao Chỉ tạm yên, người tài phương
Bắc đều đến đó ở”. Không những là một nhân tài về học vấn, tư tưởng, Sĩ
Nhiếp còn là một người đức độ, tiếng tăm vang dội đến Trung Hoa. Khi
Trung Hoa rơi vào cảnh hỗn loạn thì những nhân tài Trung Hoa, mà Mâu Tử
gọi là những “Bắc phương dị nhân”, vốn sẵn ngưỡng mộ, có giao du hay chỉ
nghe tiếng, đã vượt ngàn dặm xa xôi, đến nước ta để hưởng cảnh thái
bình, thịnh trị. Không những thế, Sĩ Nhiếp còn xây dựng Giao Chỉ thành
một xứ tự chủ, yên ổn giữa cảnh đại loạn trên toàn đế quốc Trung Hoa.
Viên Huy, trong báo cáo gởi cho thượng
thư lịnh Tuân Hoặc của thừa tướng Tào Tháo đã ca ngợi: “Sỹ phu quân của
Giao Chỉ (tức Sĩ Nhiếp) học vấn đã ưu bác, lại thành công trong tùng
chính, ở trong đại loạn, bảo toàn một quận, hơn 20 năm, cương trường vô
sự, dân không thất nghiệp, bọn người lệ thuộc đều được nhờ ơn tuy Đậu
Dung giữ Hà Tây há hơn được ư?.... Đương thời quí trọng, chấn phục trăm
Man, Úy Đà không đủ hơn...”
Đậu Dung là một nhân vật đặc biệt, một
trong những lãnh tụ Phật giáo đầu tiên ở Trung Hoa. Ông xây chùa lớn
chứa được ba ngàn người, và nhân mùa Phật đản, làm tiệc đãi dân chúng
dài trên 10 dặm đường. Còn Triệu Đà là người cha khai sáng nước Nam
Việt, bao gồm toàn cõi Lĩnh Nam của Việt tộc, từ hồ Động Đình ở Hồ Nam
đến Phù Nam, và đã làm cho đế quốc Trung Hoa phải khiếp sợ cầu hoà. Viên
Huy so sánh Sĩ Nhiếp với Triệu Đà. Đây là một nhận định chính trị quan
trọng trên hai điểm:
1) Triệu Đà đã xây dựng một nước Nam Việt độc lập, tự chủ đối với đế quốc Trung Hoa;
2) Triệu Đà đã xây dựng một quốc
gia riêng biệt, cường thịnh, uy thế lẫy lừng. Đây cũng là hai đặc tính
nổi bật của chính quyền Sĩ Nhiếp và của nước ta trong thời đại Sĩ Nhiếp.
Tuy chỉ giữ chức thái thú đứng đầu
quận Giao Chỉ, nhưng thật ra Sĩ Nhiếp, qua các người em, đã làm chủ toàn
bộ cõi Lĩnh Nam, lãnh thổ truyền thống hình thành từ hàng ngàn năm
trước đó của Việt tộc. Theo truyện Sĩ Nhiếp trong Ngô Chí: “... Thứ sử
Giao Châu Chu Phù bị giặc mọi giết chết. Châu quận nhiễu loạn, Nhiếp
dâng biểu xin cho Nhất (Sĩ Nhất, em Sĩ Nhiếp) giữ chức thái thú Hợp Phố,
em kế Từ Văn Lịnh Vỹ giữ thái thú Cửu Chân, và em Vỹ là Vũ giữ thái thú
Hải Nam. Đây là toàn bộ lãnh thổ của nước Nam Việt thời Triệu Đà, bao
gồm Quảng Đông, Quảng Tây. Và đây cũng chính là vùng “Lĩnh Nam riêng một
triều đình nước ta” trong thời khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Mãi đến
thời Tôn Quyền mới đổi Giao Chỉ thành Giao Châu, tách Quảng Đông, Quảng
Tây ra khỏi đất Việt Nam và đặt tên mới là Quảng Châu. Từ đó Quảng Đông,
Quảng Tây bị nuốt trọn vào đế quốc Trung Hoa. Tuy nhiên, đến ngày nay,
nhiều người ở Lưỡng Quảng vẫn gọi vùng này là Việt Đông, Việt Tây.
Điểm đặc biệt là dù đã du học và thành
đạt rực rỡ ở kinh đô nhà Hán, và dù giao du, tiếp xúc thân tình với
những “Bắc phương dị nhân”, những nhân tài ưu tú nhất của Trung Hoa,
nhưng cách sống, cách cai trị của Sĩ Nhiếp, một người Việt đã được Việt
hoá đến bảy đời, khác hẳn văn hoá, tập tục nhà Hán, cũng không giống các
thứ sử, thái thú trước đó hay sau này; trái lại, rất gần gũi phong thái
của Triệu Đà, của các quân vương Việt Nam như Lê Đại Hành. Và có thêm
một đặc điểm nữa mà không một vị vua nào ở vùng Đông Á (Trung Hoa, Triều
Tiên, Nhật Bản) có được, vì phong thái của ông phảng phất phong thái
của những vị quân vương Phật giáo của các xứ Đông Nam Á đã được Ấn Độ
hoá và Phật hoá.
Ngô Chí đã ca ngợi, tôn vinh Sĩ Nhiếp
tuyệt đỉnh, nhờ đó ngày nay ta mới có một tư liệu rất quý về Phật giáo
thời Sĩ Nhiếp: “Anh em Nhiếp đều là người hùng các quận, làm trưởng một
châu, riêng ở 10.000 dặm, uy tôn vô thượng (không có ai cao hơn). Ra vào
đánh chuông khánh, đầy đủ uy nghi, kèn sáo cổ xuy, xe, ngựa đầy đường.
Người Hồ theo sát xe đốt hương, thường có mười mấy người. Thê thiếp đi
xe màn, đệ tử theo lính kỵ. Đương thời quý trọng, chấn phục trăm mọi. Úy
(Triệu) Đà cũng không đủ hơn” (WIKIPEDIA)
Học giả Keith Taylor đã công bình, trung
thực khi gọi Sĩ Nhiếp là một nhà lãnh đạo Phật giáo. Ông mở ra một thời
đại tự do, khai phóng, đa nguyên và đầy khoan dung. Ông là người tiền
phong cho những vị quân vương-Phật tử sau này hình thành chủ đạo văn hoá
chính trị Phật giáo, một quốc đạo mới, đưa Việt Nam vượt thắng 1.000
năm Bắc thuộc, và khai sinh thời đại Phật giáo Lý-Trần vinh quang.
THỜI TIỀN LÊ
Kể
từ nhà Đinh suy thoái, nhà Lê bắt đầu kế vị bởi Lê Đại Hành vốn xuất
thân từ Thập Đại Tướng quân thời nhà Đinh vào năm 980; qua năm 981, ông
có công đánh tan quân xâm lược nhà Tống, nhưng tại vị chỉ được 24 năm.
Sau đó, vì không chỉ định ngôi vị kế thừa nên rối loạn nội đình suốt 8
tháng; cũng vì thế mà anh em đấu đá sát phạt nhau. Lê Trung Tông lên
ngôi ba ngày thì bị em là Lê Long Đỉnh sát hại chiếm ngôi. Thay vì lo
cho dân cho nước, Long Đỉnh lại ăn chơi sa đọa, làm nhiều điều bạo
ngược: róc mía trên đầu sư Quách Ngang, cũng như thiêu sống, trấn nước,
róc thịt tội phạm bằng dao cùn, xem thường quan lại, không để tâm đến
điều trần, trình tấu của triều thần... làm cho quan dân chán ghét, vì
vậy bị triều thần giết chết lúc mới 24 tuổi (1009).
Thời tiền Lê biết trọng dụng các danh Tăng
để làm quốc sư và đối ngoại với Đại Hán như Thiền sư Khuông Việt và
Thiền sư Đỗ Pháp Thuận; chứng tỏ, Phật giáo lúc bấy giờ có một tầm ảnh
hưởng nhất định trong xã hội. Chính vì thế, đã từng có một thiền sư Vạn
Hạnh, Thiền sư Lý Khánh Vân un đúc nên một Lý Công Uẩn, làm rạng danh
Phật giáo và quốc gia lúc bấy giờ. Lê Quý Đôn cũng tán thán ca ngợi hai
nhân vật lịch sử nhà Phật trên đây. Nhà tiền Lê có những anh tài kiệt
xuất từ Phật giáo như thế đã làm nhà Tống kính nể không ít, nhất là khi
Lê Đại Hành vừa nhiếp chính đã đánh cho quân Tống tả tơi, chúng phải cầu
hòa. Đương thời, ngoài Bắc Tống, Đại Cồ Việt ta chưa có cuộc giao tiếp
thương mãi nào với các quốc gia khác.
Nhà tiền Lê tồn tại 29 năm. Sau khi Lê
Long Đỉnh bị triều thần sát hại, Lý Công Uẩn được tiến cử kế thế vương
vị. Mặc dù Lý Công Uẩn là quan triều nhà Lê, giữ chức Tả Thân vệ Điện
Tiền chỉ huy sứ. Sinh thời, Lê Đại Hành mất, con là Lê Long Việt, tước
hiệu là Lê Trung Tông lên ngôi, được ba ngày thì bị em là Lê Long Đỉnh
sát hại, quần thần hoảng sợ bỏ chạy hết thì Lý Công Uẩn vẫn ôm xác Lê
Trung Tông mà khóc; nhờ tính trung khí đó mà Lê Long Đỉnh trọng dụng.
Mặc dù Tiền Lê chỉ cai trị vỏn vẹn 29 năm
(980-1009), đã đánh dẹp nội loạn, khác với các thời đại trước, Tiền Lê
biết phân quyền; mở lộ khai kênh; cải tổ thuế má; khuyến khích giao
thương. Về văn hóa thì Tiền Lê chưa có một dấu ấn đặc thù nào, ngoại trừ
sự vượt trội của các danh Tăng Phật giáo và lập thành bộ luật gọi là
Quốc Triều hình luật còn gọi là luật Hồng Đức vào thời Lê sơ. Sở dĩ Phật
giáo xuất chúng qua Pháp sư Đỗ Thuận và Khuông Việt, hai cao Tăng nầy
tuy sống trong đương triều nhưng căn gốc đã được ươm mầm trong Phật giáo
trước thời thuộc Đường. Do vậy, thời Tiền Lê, Phật giáo luôn ảnh hưởng
sâu đậm trong triều cung cũng như trong xã hội; nhờ tài năng xuất chúng
của các danh Tăng mà Tiền Lê tạo được sự kính nể của triều Tống. Các
danh Tăng thường được tham vấn về quốc sách. Về ngoại giao, mặc dù là
nước nhỏ, Lê Đại Hành cũng không chứng tỏ khiếp nhược trước Đại Tống.
Ngược lại với tiền Lê, hậu Lê đã ghi vào
sách sử nhiều đặc thù và cũng là triều đại lâu dài nhất; tạo nhiều công
trạng cho dân tộc. Cũng triều hậu Lê, Phật giáo với dân tộc như hình với
bóng, là nguồn sinh lực dồi dào giúp cho xã hội vững bền và thăng hoa.
(Đời thứ 10, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư họ Đỗ, không rõ quê quán ở đâu,
xuất gia từ thuở bé, thọ giới với Thiền sư Long Thọ Phù Trì. Sau khi đắc
pháp, Sư nói lời nào cũng phù hợp sấm ngữ.
Nhà Tiền Lê mới dựng nghiệp, thường
mời Sư vào triều luận bàn việc chánh trị và ngoại giao. Khi quốc thái
dân an, Sư không nhận sự phong thưởng. Vì thế, vua Lê Đại Hành rất kính
trọng, không dám gọi tên, chỉ gọi là Đỗ Pháp Sư.
Nhà vua nhờ Sư trông coi việc soạn thảo văn kiện, thư từ ngoại giao.
Năm Thiên Phước thứ bảy (986), nhà
Tống sai sứ là Lý Giác sang phong tước hiệu cho vua Đại Hành. Vua nhờ Sư
cải trang làm lái đò để đón Sứ. Trên sông, bất chợt Lý Giác thấy hai
con ngỗng bơi, cảm hứng liền ngâm:
Song song ngỗng một đôi
Ngửa mặt ngó ven trời.
(Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha).
Sư đang chèo, ứng khẩu ngâm tiếp:
Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân hồng bơi. (T.T.Mật Thể)
(Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba).
Lý Giác rất thán phục.
Vua Đại Hành hỏi vận nước dài ngắn thế nào, Sư đáp bằng bài kệ:
Vận nước như dây quấn
Trời Nam sống thái bình
Rảnh rang trên điện các
Chốn chốn dứt đao binh.
(Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh).
Về sau, Sư trụ trì chùa Cổ Sơn làng Thừ, quận Ải.
Niên hiệu Hưng Thống thứ hai (990), Sư không bệnh mà tịch, thọ 76 tuổi.
Tác phẩm của Sư có:
* Bồ Tát Hiệu Sám Hối Văn
* Thơ tiếp Lý Giác
* Một bài kệ.
(Thiền Tông Việt Nam)
Đại Sư KHUÔNG VIỆT
(933 - 1011)
(Đời thứ 4, dòng Vô Ngôn Thông)
Sư tục danh Ngô Chân Lưu, quê làng Cát
Lợi quận Thường Lạc, dòng dõi của Ngô Thuận Đế. Sư dáng mạo khôi ngô, ý
chí lỗi lạc và tánh tình bình thản.
Thuở nhỏ theo nghiệp Nho, lớn lên trở
về Phật. Sư thọ giáo với Thiền sư Vân Phong ở chùa Khai Quốc, thấu tột
thiền yếu và đọc khắp các kinh điển.
Năm 40 tuổi, danh Sư vang khắp tùng
lâm, vua Đinh Tiên Hoàng mời vào cung hỏi đạo. Sư ứng đối rành rẽ, vua
rất mến phục, phong chức Tăng Thống.
Năm sau, niên hiệu Thái Bình thứ hai (971), vua lại phong Khuông Việt Đại Sư.
Đến đời vua Lê Đại Hành, Sư càng được kính trọng. Bao nhiêu việc binh, việc nước, vua đều mời Sư vào hỏi.
Năm thứ bảy niên hiệu Thiên Phước
(986), nhà Tống sai sứ là Lý Giác sang nước ta, vua Đại Hành sắc Sư ra
đón tiếp sứ. Khi Lý Giác về có để lại một bài thơ:
May gặp minh quân giúp việc làm
Một mình hai lượt sứ miền Nam.
Mấy phen qua lại lòng thêm nhớ
Muôn dặm non sông mắt chửa nhàm.
Ngựa đạp mây bay qua suối đá
Xe vòng núi chạy tới dòng lam.
Ngoài trời lại có trời soi rạng
Vừng nguyệt trong in ngọn sóng đầm.
(T.T. Mật Thể)
Nhất thân lưỡng độ sứ Giao Châu
Đông đô tái biệt tâm vưu luyến
Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu
Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch
Xa từ thanh chướng phiếm trường lưu
Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu
Khê đàm ba tịnh kiến thiềm thu.
Vua Đại Hành đưa bài thơ ấy cho Sư xem, và hỏi có ý gì không.
Sư tâu:
- Câu thứ bảy sứ Tống có ý tôn bệ hạ ngang hàng với vua của họ.
Vua Đại Hành nhờ Sư làm một bài tiễn sứ. Sư vâng lệnh làm bài từ theo điệu “Tống vương lang qui”:
Gió hòa phấp phới chiếc buồm hoa
Thần tiên trở lại nhà.
Đường muôn nghìn dặm trải phong ba
Cửa trời nhắm đường xa.
Một chén quan hà dạ thiết tha
Thương nhớ biết bao là
Nỗi niềm xin nhớ cõi Nam hà
Bầy tỏ với vua ta.
(T.T.Mật Thể)
(Tường quang phong hảo cẩm phàm trương
Thần tiên phục đế hương.
Thiên lý vạn lý thiệp thương lương
Cửu thiên qui lộ trường.
Nhân tình thảm thiết đối ly thương
Phan luyến sứ tình lang.
Nguyện tương thâm ý vị nam cương.
Phân minh tấu ngã hoàng.)
Sau, Sư viện lẽ già yếu xin từ quan,
về quê dựng một ngôi chùa hiệu Phật Đà trên núi Du Hý, làng Cát Lợi,
quận Thường Lạc, rồi trụ trì ở đó. Học giả bốn phương tụ họp về học vấn
rất đông. Thọ 79 tuổi.
(Thiền Tông Việt Nam)
Tóm lại, Tiền Lê gồm ba triều đại:
Lê Đại Hành 980 - 1005
Lê Trung Tông 1005
Lê Ngọa Triều 1005- 1009
Thiền Sư SÙNG PHẠM
(1004 - 1087)
(Đời thứ 11, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư họ Mâu, dáng vẻ mạnh mẽ to lớn, hai
trái tai thòng đến vai. Xuất gia xong, Sư đến tham vấn với ngài Vô Ngại
ở Hương Thành. Sau khi được tâm ấn, Sư dạo khắp nước Thiên Trúc để cầu
học hỏi sâu rộng. Mãn chín năm Sư trở về nước gồm thông giới định.
Về sau, Sư trụ trì chùa Pháp Vân làng Cổ Châu, Long Biên thuyết pháp giáo hóa, học giả các nơi qui hướng rất đông.
Hoàng đế Lê Đại Hành nhiều phen thỉnh Sư vào cung để thưa hỏi huyền chỉ. Vua lấy lễ đãi Sư rất trọng hậu.
Đến năm Quảng Hựu thứ ba triều Lý (1087) nhằm năm Đinh Mão, Sư viên tịch, thọ 84 tuổi. (Thiền Tông VN)
Thiền Sư TÔNG DIỄN hiệu CHÂN DUNG
(1640 - 1711)- Đời pháp thứ 37, tông Tào Động.
Thiền sư Tông Diễn không biết tên tục,
quê quán có thể ở thôn Phú Quân, huyện Cẩm Giang. Khi Sư được 12 tuổi,
một hôm bà mẹ chuẩn bị gánh hàng ra chợ bán, dặn con giã cua nấu canh.
Sư định làm như lời dặn, nhưng nhìn thấy những con cua tuôn những hạt
bọt ra, dường như khóc rơi từng giọt nước mắt; Xót thương quá đem thả
hết. Bà mẹ lấy roi đánh Sư. Sợ quá, Sư chạy một mạch không dám ngó lại.
Từ đây đứa con trai bà mất luôn.
Khoảng hơn ba mươi năm sau, đã thành
Hòa thượng Trụ trì, Sư nhớ đến mẹ liền về quê cũ tìm kiếm. Sư tìm gặp mẹ
bán quán trà. Sư mở lời rước bà về chùa. Sư cho cất một am tranh gần
chùa, Sư phân công bà lão quét sân chùa hay nhổ cỏ, tùy sức khỏe của bà.
Sư luôn luôn nhắc nhở Bà tu hành.
Trong quyển Hồng Phúc Phổ Hệ có những đoạn tán thán công đức của Sư:
“Diêu văn Đại Thánh Sư, thần đức nan
tuyên giả, chỉ tích mẫu quan phi, niệm kinh Bảo Liên Hoa, đầu đơn đế
nhãn minh, tiến ngọc quân vương tạ...”
Nghĩa là: “Xa nghe thầy Đại Thánh,
thần đức khó nói hết, gậy chỉ quan (tài) mẹ bay, tụng kinh Bảo Liên Hoa,
nạp đơn vua mắt sáng, dâng ngọc quân vương tạ (ơn)...”.
Sư trụ trì ở Đông Sơn nghe Thiền sư
Thông Giác từ Trung Quốc đắc đạo trở về ở chùa Vọng Lão trên núi Yên Tử,
liền tìm đến yết kiến. Thiền sư Thông Giác cho Sư pháp danh Tông Diễn.
Ngài nói kệ trao pháp:
Tất cả pháp chẳng sanh
Tất cả pháp chẳng diệt
Phật Phật, Tổ Tổ truyền
Uẩn không sen đầu lưỡi.
(Nhất thiết pháp bất sanh
Nhất thiết pháp bất diệt
Phật Phật, Tổ Tổ truyền
Uẩn không liên đầu thiệt.)
Từ đây Sư luôn theo hầu dưới gối. Đến
năm 32 tuổi, Sư thọ cụ túc giới, xin phép Thiền sư Thông Giác đi hành
cước tham vấn các nơi.
Năm niên hiệu Vĩnh Trị (1678) vua Lê
Hy Tông ra lệnh cho các quan khắp nước bất cứ ở đâu Tăng Ni hoặc già
hoặc trẻ đều đuổi hết về rừng núi. Sư biết được tin này rất đau lòng. Sư
bèn quyết tâm rời chốn sơn dã về đất thần kinh, mong cảnh tỉnh nhà vua,
cứu vãn Phật pháp trong khi tai nạn. Ngài nhờ quan Đề Lĩnh tâu lên vua
là có ngọc quý dâng hiến. Vị quan văn bưng hộp ngọc đến trước triều dâng
lên vua, khi mở ra xem chỉ là một tờ biểu, chớ không có hòn ngọc nào.
Vua phán vị quan văn đọc tờ biểu cho vua nghe. Vua nghe qua thấy lý lẽ
rõ ràng, sự tình đầy đủ, lời văn sáng suốt, ý tứ thâm trầm, bèn ra lệnh
quan Đề Lĩnh dẫn vị tăng này vào triều.
Khi vào triều, vua cho Sư ngồi một bên
trước mặt vua. Vua hỏi những sách lược trị dân, Sư ứng đối sự lý rất
dung thông. Khi ấy, vua phán: “Đạo Phật là viên ngọc quí, chẳng lẽ trong
nước chúng ta không dùng, Tăng Ni hay khuyên người làm thiện, tại sao
lại vất bỏ đi? Người đem Phật pháp khai hóa dân chúng cũng là phương
pháp tốt giúp cho triều đình trị dân.” Vua liền mời Sư ở lại chùa Báo
Thiên để bàn luận đạo lý. Thượng hoàng nghe tiếng sai Trung sứ đến nói
với vua thỉnh Sư vào cung diễn giảng kinh pháp. Vua cũng đến dự nghe
thấu hiểu đạo lý, liền ban cho Sư được quyền ra vào nội cung để tuyên
dương chánh pháp, đồng thời ra lệnh thu hồi lệnh trước, để Tăng Ni tự ý
trở về chùa mình ở đâu tùy duyên giáo hóa.
Vua Lê Hy Tông đã thấm nhuần đạo lý,
thành tâm sám hối lỗi trước của mình, nên tạc hình vua quì mọp để tượng
Phật trên lưng để tỏ lòng thành sám hối. Tượng này hiện còn thờ ở chùa
Hồng Phúc.
Đã giải được ách nạn của Tăng Ni (Phật
pháp) và giáo hóa được vua chúa trong triều, Sư nghỉ việc xin vua về
núi thăm thầy. Sau Sư trụ trì ở chùa Hồng Phúc, thường tới lui giảng đạo
cho vua chúa nghe. Sư thọ 72 tuổi.
NHÀ LÝ
Mở đầu triều đại nhà Lý là Lý Công Uẩn (1010-1220)
1. Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn 1010 – 1028)
Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp (Từ Sơn,
Bắc Ninh), mẹ họ Phạm, sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (974). Mẹ chết
khi mới sinh, thiền sư Lý Khánh Vân nhận làm con nuôi, Lý Công Uẩn
thông minh và có chí khí khác người ngay từ nhỏ. Nhờ sự nuôi dạy của nhà
sư Lý Khánh Vân và Lý Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn trở thành người xuất chúng,
văn võ kiêm toàn, làm đến chức Điện tiền chỉ huy sứ. Khi Lê Ngọa Triều
mất, triều thần tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế, niên hiệu Thuận
Thiên, vẫn lấy Quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư. Lý Công Uẩn
lên ngôi vào năm Kỷ Dậu (1009) tháng 11 ngày Quý Sửu. Tháng 7 năm 1010,
vua Lý Thái Tổ cho dời đô về thành Đại La, một buổi sáng đẹp trời,
thuyền vừa cập bến, Nhà Vua thấy Rồng vàng bay lên, do đó đặt tên là
kinh đô Thăng Long (tức là Hà Nội ngày nay). Vua Thái Tổ chỉnh đốn lại
việc cai trị, chia đất nước làm 24 lộ, trị vì 18 năm, thọ 55 tuổi.
Lý Công Uẩn được hai Thiền sư uyên bác làm
dưỡng phụ và tôn sư, dạy dỗ cả kinh điển Phật giáo lẫn Nho gia, dịch lý
Đạo học, vì vậy Lý Công Uẩn đã có tầm nhìn chiến lược chính trị, kinh
tế và xã hội trong sách lược an bang tế thế. Lúc còn dưới trướng nhà Lê,
Lý Công Uẩn cũng đã biết đánh giá chiến lược về thời bình cũng như binh
thuật trong thời chiến. Mãi đến khi lên ngôi được một năm, ý định dời
đô về trung tâm sông Hồng của Lý Công Uẩn mới thực hiện, nhưng để thực
hiện điều nầy, thay vì dùng quyền lực của nhà vua để quyết định, Lý công
Uẩn ra chiếu dời đô, phủ dụ phân tích thiệt hơn khi dùng đồng bằng làm
đế đô để phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Chính sự khôn ngoan và
biết tôn trọng ý dân, quần Thần, Lý công Uẩn đã được toàn dân ủng hộ, âm
phò dương trợ; nên để củng cố niềm tin của thần dân, Lý công Uẩn cho
biết nơi thành Đại La có rồng xuất hiện, nên đặt nơi đây là Thăng Long.
Quần thần tôn kính lập biểu dâng sớ tán đồng: "Bệ hạ vì thiên hạ lập
kế dài lâu, trên cho nghiệp đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân
chúng được đông đúc giàu có, điều lợi như thế, ai dám không theo". (Đại Việt sử ký toàn thư).
Tuy lìa chốn cũ, vua Lý không quên quan
tâm lòng dân bản xứ, nên đổi Hoa Lư thành phủ Trường An và làng Cổ Pháp
thành phủ Thiên Đức.
Về tôn giáo: Sau khi ổn
định chính trị kinh tế và quân sự, vua Lý Công Uẩn bắt đầu vun bồi tôn
giáo để làm điểm tựa tâm linh cho thần dân. Hơn ai hết, Lý Công Uẩn được
xuất thân từ Thiền Môn, biết giá trị tâm linh cũng như chính trị xã hội
bấy giờ, tôn giáo là chất xúc tác gắn bó keo sơn lòng dân trong xã hội.
Vì vậy, nhà Lý đã nổ lực xây dựng chùa đình miếu mạo cung ứng nhu cầu
tín ngưỡng truyền thống cho nhân dân.
Năm 1018, Lý Thái Tổ sai hai quan là Phạm Hạc và Nguyễn Đạo Thanh sang Trung Quốc (đời Tống) thỉnh Tam Tạng kinh về thờ.
Chiến lược chính trị như thế, bị một số
Nho gia phê phán qua hình thức xây dựng chùa miếu, tiếp chúng độ Tăng
hơn nửa dân số trong nước, bảo là hoang phí tài nguyên bóc lột công sức
người dân. Thử hỏi, nếu nhà vua làm không được nhân dân đồng thuận thì
liệu xã hội có được yên bình thịnh vượng như thế chăng?
Sử gia Lê Văn Hưu phê bình trong Đại Việt sử ký:
Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm,
tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đã dựng 8 chùa ở phủ
Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho làm Tăng hơn nghìn
người ở Kinh sư, thế thì tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không
biết chừng nào mà kể. Của không phải là trời mưa xuống, sức không phải
là Thần làm thay, há chẳng phải là vét máu mỡ của dân ư? Vét máu mỡ của
dân có thể gọi là làm phúc chăng? Bậc vua sáng nghiệp tự mình cần kiệm,
còn lo cho con cháu xa xỉ lười biếng, thế mà Thái Tổ để phép lại như
thế, chả trách đời sau xây tháp cao ngất trời, dựng cột chùa đá, điện
thờ Phật lộng lẫy hơn cung vua. Rồi người dưới bắt chước, có kẻ hủy thân
thể, đổi lối mặc, bỏ sản nghiệp, trốn thân thích, dân chúng quá nửa làm
sư sãi, trong nước chỗ nào cũng chùa chiền, nguồn gốc há chẳng phải từ
đấy?
Nho gia đố kỵ phê phán như có lý, nhưng
thực tình kết quả việc làm của Thái tổ đã nhờ tài khôn khéo về tâm lý
chính trị đó mà Lý Thái Tổ đã ổn định nội tình, an bình xã hội, quần
chúng quy về một mối và thuận thảo với ngoại bang.
Quốc gia thịnh trị thời quân chủ, không
chỉ trên phương diện kinh tế, tín ngưỡng góp phần lớn để an dân, thạnh
trị. Từ Tây sang Đông đều như thế, tôn giáo tín ngưỡng luôn là điểm tựa
tinh thần cho người dân sau kinh tế và cơm ăn áo mặt vừa đủ. Nhà lãnh
đạo khôn ngoan luôn tôn trọng tín ngưỡng quần chúng và tạo điều kiện cho
tín ngưỡng đó phát triển.
Về Chính Trị: Về mặt lịch
sử đương thời, Việt Nam chỉ phải đối đầu với các lân bang là Trung
Quốc, Chiêm Thành và Chân Lạp. Theo lịch sử thì Tống Chân Tông phải đối
diện với nhiều vấn đề nội tình nên không có thời giờ dòm ngó Đại Việt,
chẳng những thế mà còn phong cho vua Lý Thái Tổ làm Nam Bình Vương
(1017). Còn Chiêm Thành và Chân Lạp đều triều cống hàng năm, nên biên
cương ổn định, xã hội thịnh vượng, dân cư lạc nghiệp. Tuy nhiên, cũng
không tránh khỏi một số bộ tộc làm loạn, buộc lòng vua và các Hoàng Thái
tử được phong vương thân chinh đánh dẹp. Trong lúc dẹp loạn, vua luôn
nơm nớp lo sợ giết lầm người hiền hoặc giết oan kẻ trung hiếu, nên vua
khấn vái đất trời: "Tôi là người ít đức, lạm ở trên dân, nơm nớp lo
sợ như sắp sa xuống vực sâu, không dám cậy binh uy mà đi đánh dẹp càn
bậy. Chỉ vì người Diễn Châu không theo giáo hóa, ngu bạo làm càn, tàn
ngược chúng dân, tội ác chồng chất, đến nay không thể dung tha không
đánh. Còn như trong khi đánh nhau, hoặc giết oan kẻ trung hiếu, hoặc hại
lầm kẻ hiền lương, đến nỗi hoàng thiên nổi giận phải tỏ cho biết lỗi
lầm, dẫu gặp tổn hại cũng không dám oán trách. Đến như sáu quân thì tội
lỗi có thể dung thứ, xin lòng trời soi xét". Sau khi ông khấn, gió sấm không còn dữ dội nữa và trở nên yên lặng tại trận Diễn Châu.
Tóm lại, tuy xuất thân từ Thiền Môn, bản
chất là một Phật tử luôn tôn trọng sự sống, nhưng vì nhiệm vụ với đất
nước, vì an sinh xã hội, buộc lòng vua Lý Thái Tổ phải sát phạt các nơi
dấy loạn để mở mang bờ cõi, yên bình xã hội. Thể hiện đúng tinh thần
Bi-Trí-Dũng của nhà Phật.
Lý Thái Tổ là một mẫu người Phật tử, có
công với nước, có đức với dân, có hiếu với Đạo. Đã làm rạng rỡ Đại Việt
cũng như phát triển Phật giáo đương đại. Tuy nhiên, các thế hệ triều Lý
kế thừa, một số tranh chấp vương vị không thua các triều đại trước như
các hoàng tử Võ Đức Vương, Dực Thánh Vương, Đông Chính Vương đem quân
vây hoàng thành để tranh ngôi vua với Thái Tử Lý Phật Mã (Lý Thái Tông).
Cũng có triều đại ăn chơi sa đọa như Lý Cao Tông, say sưa suốt ngày như Lý Huệ Tông, nhưng không độc ác như Lê Long Đỉnh.
Cũng có triều đại mở mang bờ cõi, xây dựng
đất nước như - Lý Thái Tông, tức Lý Phật Mã (1028-1054); xây dựng lực
lượng quân đội và quần chúng để tạo thế mạnh toàn dân bảo vệ tổ quốc;
vua biết thân dân và giao hảo tốt với dân tộc thiểu số, gả công chúa
Bình Dương cho Châu Lạng... Lý Thái Tông cũng ban Hình Thư vào năm 1042.
Đây là sách luật đầu tiên của Việt Nam gồm luật dân sự, luật hình sự,
luật tố tụng và hôn nhân gia đình.
Cũng có đời vua biết thương dân, quan tâm
sự ấm no đói lạnh của dân và thương tội phạm như Lý Thánh Tông (Lý Nhật
Tôn 1054-1072). Qua 9 triều đại nhà Lý 1009-1225, chỉ có ba vị là Lý
Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, ảnh hưởng tinh thần đạo đức Phật
giáo sâu đậm. Tuy nhiên, vua Lý Thánh Tông, húy Nhật Tôn, có trách nhiệm
với tổ quốc và biết thương dân, có sáng kiến khôi phục kinh tế, an dân,
mở mang bờ cõi, được xem là một vị vua anh minh nhân từ nhất trong lịch
sử:
Lý Thánh Tông (Lý Nhật Tôn 1054 – 1072)
Lý Thánh Tông tên húy là Nhật Tôn, sinh
ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi (1023), là con bà Kim Thiên Thái Hậu họ Mai.
Nhà sử học Ngô Sỹ Liên ghi trong “Đại Việt sử ký toàn thư”: “... Vua
khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị
hình, vỗ về thu phục người xa, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa
sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh, đáng gọi là bậc
Vua tốt. Song nhọc sức xây tháp Báo Thiên, phí của dân làm cung Dâm Đàm,
đó là chỗ kém”. Lý Thánh Tông mất năm Nhâm Tý (1072) trị vì 18 năm, thọ 50 tuổi.
Ngay sau khi lên ngôi, vua Thánh Tông đổi quốc hiệu là Đại Việt. Lý Thánh Tông là một vị vua có lòng thương dân. Nhân một năm trời rét đậm, Thánh Tông bảo các quan hầu cận rằng:
"Trẫm ở trong cung ngự sưởi than thú,
mặc áo hồ cừu mà còn rét thế này. Huống chi những tù phạm giam trong
ngục, phải trói buộc, cơm không có mà ăn, áo không có mà mặc; vả lại có
người xét hỏi chưa xong, gian ngay chưa rõ, nhỡ rét quá mà chết thì thật
là thương lắm".
Hoặc - "Lại có một hôm, Thánh Tông ra ngự ở
điện Thiên Khánh xét án, có Động Thiên công chúa đứng hầu bên cạnh.
Thánh Tông chỉ vào công chúa mà bảo các quan rằng:
"Lòng trẫm yêu dân cũng nhý yêu con
trẫm vậy, hiềm vì trăm họ ngu dại, làm càn phải tội, trẫm lấy làm thương
lắm. Từ rày về sau tội gì cũng giảm nhẹ bớt đi."
Vua cũng đã có công mở rộng biên cương -
phá Tống bình Chiêm, có tiếng giỏi binh pháp, nhà Tống cũng phải học hỏi
phiên chế quân đội Đại Việt lúc bấy giờ. Vua từng làm nhà Tống thất
điên bát đảo, bắt được tướng nhà Tống là Dương Bảo Tài. Nhiều lần phản
công bị thất bại, Tống phải sai sứ cầu hòa, nhưng vua cương quyết không
trao tù binh Dương Bảo Tài. Phía Nam, Chiêm Thành làm loạn, vua thân
chinh đi đánh, bắt được Chế Củ. Chế Củ xin dâng đất ba châu là Địa Lý,
Ma Linh và Bố Chính để
chuộc tội. Thánh Tông lấy 3 châu ấy và cho Chế Củ về nước. Những châu
ấy nay ở địa hạt các huyện Quảng Ninh, Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hoá,
Lệ Thuỷ tỉnh Quảng Bình và huyện Bến Hải tỉnh Quảng Trị (Wikipedia).
Như một quy luật - Thành-trụ-hoại-không,
tuy các tiên đế đức độ tài ba, lập quốc an dân, mở mang bờ cõi, thế
nhưng, các triều đại về sau, bê tha bất tài, đã bị các đại thần khống
chế như Trần Thủ Độ. Đời Lý cuối cùng là Lý Huệ Tông bị Thủ Độ ép xuất
gia để rồi bức tử, nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng. Không lâu
sau đó, ngai vàng chuyển qua nhà Trần, vua Trần đầu tiên là Trần Cảnh,
được hơn 8 tuổi, theo sự chỉ đạo của Trần Thủ Độ.
Nhà Lý tồn tại từ 1009 đến 1225, tức 216
năm. Một triều đại giữ vững ngai vàng lâu dài nhất so với các triều đại
tiền nhiệm. Triều Lý phát triển kinh tế văn hóa khá sâu đậm, lập Văn
miếu, Quốc Tử giám chọn hiền tài ngoài giới quý tộc, tôn trọng Nho giáo
song song Phật giáo. Quản lý đất nước theo luật pháp mà không do chuyên
quyền cá nhân áp đặt, đây là nét văn minh của thể chế phong kiến lúc bấy
giờ.
Theo nhà sử học Ngô Sĩ Liên trong "Đại Việt sử ký toàn thư" thì:
Cũng có đời vua như Lý Thần Tông
(1128-1138) lấy nông nghiệp làm cơ bản phát triển kinh tế làm cho dân no
ấm. Luân phiên cho quân nghỉ 6 tháng về canh tác, thực hiện chính sách
"ngụ binh ư nông".
Qua những suy vi của triều Lý, một phần do
vua Lý Cao Tông tắc trách, ăn chơi sa đọa, bất tài, nghe theo nịnh
thần, làm cho dân đói kém chết chóc quá nhiều, vì thế loạn lạc nổi lên
khắp nơi; một phần do đại thần Trần Thủ Ðộ khuynh loát thao túng triều
chính, bắt ép Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh. Do cảnh loạn lạc
trong nước và triều Lý thất sủng, nên Lý Long Tường, hoàng tử của Lý
Anh Tông, theo đường biển, chạy tỵ nạn sang Cao Ly, được vua Triều Tiên
phong tặng Hoa Sơn tướng quân nước Cao Ly lúc bấy giờ. Và từ đó Lý Long
Tường trở thành tổ của giòng họ Lý đầu tiên tại Hàn quốc.
Tóm lại, Sử gia Hoàng Xuân Hãn viết: “Triều đại nhà Lý là Triều đại thuần từ nhất trong lịch sử nước ta. Đó là nhờ ảnh hưởng của Phật giáo”.
Các vua đời Lý so sánh với các vua
Đinh, Lê thì giỏi hơn rất nhiều về phương diện học thức. Sự tôn sùng đạo
Phật của các vua đời Lý cũng có tính cách tâm linh và trí thức hơn. Họ
đều có học Phật và thường mời các thiền sư vào hoàng cung để đàm luận
giáo lý. Vì thế thiền học đời Lý đã thực sự phát triển với các bậc cao
tăng thạc đức như: Khánh Hỷ, Viên Thông, Viên Chiếu, Thường Chiếu, Bảo
Giác... Các vị này đã đóng góp vào kho tàng văn học Việt Nam một số thi
ca, trước tác, bi minh rất đáng kể.
(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
Thiền Sư VẠN HẠNH
(? - 1018)-
(Đời thứ 12, Dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư họ Nguyễn, quê ở làng Cổ Pháp, gia
đình đời đời thờ Phật. Thuở nhỏ Sư đã thông minh khác thường, thông suốt
Tam học và nghiên cứu Bách luận, mà vẫn xem thường công danh phú quí.
Năm 21 tuổi Sư xuất gia, cùng Thiền sư
Định Huệ, thọ học với Thiền Ông Đạo Giả ở chùa Lục Tổ làng Dịch Bảng
phủ Thiên Đức. Khi việc rảnh rỗi, Sư học hỏi quên cả mỏi mệt.
Sau khi Thiền Ông tịch, Sư kế tiếp trụ trì chùa này và chuyên tập pháp “Tổng trì tam-ma-địa” lấy đó làm sự nghiệp.
Bấy giờ Sư có nói ra lời gì dân chúng đều cho là lời sấm ký. Vua Lê Đại Hành rất tôn kính Sư.
Niên hiệu Thiên Phúc năm thứ nhất
(980), tướng Tống là Hầu Nhân Bảo kéo quân sang đánh nước ta, đóng binh ở
Cương Giáp, Lãng Sơn, vua Lê Đại Hành mời Sư đến hỏi:
- Quân ta thắng bại thế nào?
Sư đáp:
- Trong ba, bảy ngày thì giặc ắt lui.
Quả đúng như lời Sư đoán.
Ngày vua Lý Thái Tổ lên ngôi, Sư ở tại
chùa Lục Tổ mà vẫn biết trước, báo tin cho chú và bác vua Lý hay:
“Thiên tử đã băng hà, Lý Thân Vệ đã khuất phục trong thành nội, túc trực
trong vài ngày Thân Vệ ắt được thiên hạ.” Và để chiêu an bá tánh, Sư ra
yết thị rằng:
Tật Lê chìm biển Bắc
Cây Lý che trời Nam
Bốn phương binh đao dứt
Tám hướng thảy bình an
(Tật Lê trầm bắc thủy
Lý tử thọ nam thiên
Tứ phương qua can tịnh
Bát biểu hạ bình an.)
Niên hiệu Thuận Thiên thứ chín (1018) ngày rằm tháng năm, Sư không bệnh chi, mà gọi chúng nói kệ:
Thân như bóng chớp có rồi không,
Cây cỏ xuân tươi, thu đượm hồng,
Mặc cuộc thạnh suy không sợ hãi,
Thạnh suy như cỏ hạt sương đông.
(Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô,
Nhậm vận thạnh suy vô bố úy
Thạnh suy như lộ thảo đầu phô.)
Nói xong, Sư lại bảo chúng:
“Các ngươi cần trụ chỗ nào? Ta chẳng lấy chỗ trụ mà trụ, chẳng y không trụ mà trụ.” Ngừng giây lát, Sư tịch.
Vua Lý Thái Tổ và đệ tử làm lễ hỏa táng, nhặt xá-lợi xây tháp cúng dường. Về sau vua Lý Nhân Tông có làm bài truy tán Sư rằng:
Vạn Hạnh thông ba mé (Ba mé: quá khứ, hiện tại, vị lai.)
Thật hợp lời sấm xưa.
Quê nhà tên Cổ Pháp
Dựng gậy vững kinh vua.
(Vạn Hạnh dung tam tế,
Chơn phù cổ sấm cơ (ky)
Hương quan danh Cổ Pháp,
Trụ tích trấn vương kỳ.)
(Thiền Tông VN)
Tuy chỉ là một Thiền sư, nhưng lại là một
Thiền sư dung thông tam giới, đem sở học sở chứng để xây dựng đất nước;
đứng ngoài danh lợi thế sự mà vẫn tạo được lợi danh cho dân tộc một
thời. Có công un đúc một vị vua nhân hậu lãnh đạo dân tộc, ổn định giặc
loạn khắp nơi. Tu mà không rời bổn phận với đất nước; tham chính mà
không dính mắc lợi danh; tâm linh là ngọn đuốc dẫn dắt mọi hành hoạt;
Đạo Đời viên dung. Sách sử ngàn đời vẫn không mai một.
CON NGƯỜI ĐỘC DỊ CỦA NGÀN NĂM TRƯỚC VÀ SAU
1. CON NGƯỜI VẠN HẠNH VÀ CÔNG CUỘC CÁCH MẠNG
Cuộc cách mạng mà Vạn Hạnh thực hiện là
xoay chuyển vận nước và Dân tộc bước vào thời huy hoàng, và tạo dựng nền
Triết lý thực dụng cho giống nòi.
2. SỰ NGHIỆP CHÍNH TRỊ
Khả năng nầy Vạn Hạnh còn sử dụng tuyệt
diệu hơn trong việc tạo dựng nên một Lý Công Uẩn, sau nầy trở thành một
vị minh quân, một vĩ nhân của Dân Tộc.
Trước những biến động nguy ngập của thời
đại, sự xuất hiện của Vạn Hạnh như một vị cứu tinh vĩ đại cho Dân Tộc,
Vạn Hạnh là linh hồn của công cuộc cách mạng đưa Lý Công Uẩn lên ngôi.
Ngài đã đào tạo Lý Công Uẩn ngay từ lúc còn làm chú tiểu ở chùa làng Cổ
Pháp, để sau nầy trở thành một vị vua anh minh làm tròn sứ mạng cao cả
cho Dân Tộc. Nhờ sự giáo dục tài tình của Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn đã huân
tập được tinh thần Từ Bi, Trí Tuệ trong Phật Giáo, đặt sự tồn tại của
Dân Tộc lên trên, xây dựng một xã hội nhân bản, hưng thịnh, an lạc. Sử
gia Hoàng Xuân Hãn viết “Triều đại nhà Lý là Triều đại thuần từ nhất
trong lịch sử nước ta. Đó là nhờ ảnh hưởng của Phật giáo”.
3. TƯ TƯỞNG THIỀN
Sự có mặt của Vạn Hạnh là làm sống lại
sinh mệnh của dân tộc, và tiếp nối để đạt được thành công, những hoài
bão của lớp Thiền Sư trước chưa thực hiện được.
Bài kệ của Vạn Hạnh để lại:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thạnh suy vô bố uy
Thạnh suy như lộ thảo đầu phô.
Dịch:
Thân như bóng chớp chiều tà
Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rời
Sá chi suy thạnh việc đời
Thạnh suy như hạt sương sa đầu cành.
Nhà Lý trải qua 9 đời vua trị vì 216 năm (1009-1225)
Thái Tổ • Thái Tông • Thánh
Tông • Nhân Tông • Thần Tông • Anh Tông • Cao Tông • Lý Thẩm • Huệ Tông •
Nguyên Vương • Chiêu Hoàng (nữ hoàng)
Quốc Sư VIÊN THÔNG
(1080 - 1151)- (Đời thứ 18, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư tục danh Nguyễn Nguyên Ức, quê làng
Cổ Hiền sau dời về phường Thái Bạch, kinh đô Thăng Long, lập nghiệp
luôn tại đây. Sư tư chất thông minh, học hiểu đến chỗ tinh diệu, xuất
gia lúc còn nhỏ. Thọ học với Thiền sư Viên Học ở chùa An Quốc, huyện Cổ
Hiền, Sư được thầy truyền tâm ấn.
Năm thứ sáu niên hiệu Hội Phong
(1097), Sư đậu thủ khoa kỳ thi Tam giáo, sung chức Đại Văn. Đến năm thứ
tám niên hiệu Long Phù Nguyên Hóa (1108) Sư lại đứng đầu kỳ tuyển khoa
hoằng tài để bổ khuyết Tăng Đạo. Nhà vua quá quí kính muốn đem chính sự
giao phó cho Sư, Sư cố từ chối chẳng dám nhận. Vua bèn tiến chức Nội
Cung Phụng Truyền Giảng Pháp Sư. Bấy giờ, Sư tùy cơ giảng giải giáo lư,
khiến người giác ngộ, phá ngu giải hoặc không còn dư thừa. Những người
thụ giáo nơi Sư đều nổi tiếng sau nầy.
Năm thứ ba niên hiệu Hội Tường Đại
Khánh (1112), sau khi trùng hưng ngôi chùa Diên Thọ, vua sắc Sư làm bài
văn bia. Vua mến phục tài, phong Sư lên chức Tả Nhai Tăng Lục.
Năm thứ ba niên hiệu Thiên Thuận
(1130), vua Lý Thần Tông triệu Sư vào cung để hỏi việc trị loạn, hưng
vong của đất nước. Sư đáp:
- Thiên hạ ví như món đồ dùng, đặt vào
chỗ yên thì yên, đặt vào chỗ nguy thì nguy, chỉ ở đức vua thực hành
khác nhau đó thôi. Đức hiếu sinh của vua nhuần thấm đến nhân dân thì
nhân dân yêu vua như cha mẹ, tôn vua như mặt trời, mặt trăng, thế tức
đặt thiên hạ vào chỗ yên vậy.
Sư lại tiếp:
- Việc trị loạn còn ở các quan, được
lòng người thì trị an, mất lòng người thì loạn lạc. Tôi trải xem các đế
vương đời trước, chưa từng chẳng do dùng quân tử mà được hưng thạnh, vì
dùng tiểu nhân mà bị nguy vong. Xét lý do như thế, không phải tại ngay
một sớm một chiều, mà nguyên do của nó phát từ từ đã lâu lắm vậy.
Trời đất không thể làm nóng lạnh ngay,
ắt phải dần dần từ xuân sang thu; nhân quân không thể làm trị loạn
ngay, ắt phải dần dần từ thiện ác. Các thánh vương đời xưa biết thế, nên
bắt chước trời tu đức sửa mình, bắt chước đất chăm tu đức để an dân.
Sửa mình là cẩn thận bên trong, run sợ như dẫm đi trên lớp băng mỏng.
Yêu dân là kính cẩn công chúng, nơm nớp như cầm roi nắm cương ngựa. Được
như thế thì đâu mà chẳng hưng; nếu trái lại thì đâu mà chẳng vong. Lý
do hưng vong từ từ như thế.
Năm thứ năm niên hiệu Thiên Chương Bảo
Tự (1137) vua sắp băng, Sư có dự vào hàng Cố mệnh thảo tờ di chiếu. Vua
phó thác mọi việc cho Sư.
Năm thứ nhất niên hiệu Thiệu Minh (1138), vua Lý Anh Tông lên ngôi, Thái Hậu xét thấy Sư có công lớn nên rất trọng hậu.
Sau, Sư về làng Cổ Hiền tỉnh Nam Định
lập ngôi chùa hiệu Quốc Ân trụ trì đến già. Những thôn gần đây lấy thuế
cung cấp mọi phí dụng cho Sư.
Năm thứ tư niên hiệu Đại Định (1143)
nhà vua vinh thăng Sư chức Tả Hữu Nhai Tăng Thống, Nội Cung Phụng Tri
Giáo Môn Công Sự, Truyền Giảng Tam Tạng Văn Chương, Ứng Chế Hộ Quốc Quốc
Sư và ban tử y.
Ngày 21 tháng 4 năm Tân Mùi, niên hiệu Đại Định (1151), Sư họp chúng từ biệt, không bệnh mà tịch, thọ 72 tuổi.
Tác phẩm của Sư:
1. Chư Phật Tích Duyên Sự, 30 quyển.
2. Hồng Chung Văn Bi Ký.
3. Tăng Gia Tạp Lục, hơn 50 quyển.
4. Viên Thông Tập, hơn một ngàn bài thơ.
Thiền Sư KHÁNH HỶ
(1066 - 1142)- (Đời thứ 14, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, Long
Biên, vốn hạt giống tịnh hạnh. Thuở nhỏ, Sư đã không ăn thịt cá. Lớn lên
theo thọ học với Thiền sư Bổn Tịch ở chùa Chúc Thánh.
Khoảng niên hiệu Thiên Chương Bảo Tự
(1133-1138), vua Lý Thần Tông mời Sư vào kinh. Sư ứng đối xứng hợp ý
chỉ, vua bái phong chức Tăng Lục, lại thăng chức Tăng Thống.
Niên hiệu Đại Định năm thứ ba (1142) nhằm năm Nhâm Tuất, ngày 27 tháng giêng, Sư thị hiện có chút bệnh rồi tịch, thọ 76 tuổi.
Sư có sáng tác “Ngộ Đạo Ca Thi Tập”, được lưu hành ở đời.
Theo Sử ký ghi Sư tịch vào năm Thiên Chương Bảo Tự thứ ba (1135).
Thiền Sư ĐA BẢO
(Đời thứ 5, dòng Vô Ngôn Thông)
Chẳng rõ Sư người ở đâu và họ gì. Chỉ
biết, khi Khuông Việt đại sư mở trường giáo hóa ở chùa Khai Quốc, Sư đến
tham học. Được Đại sư khen là bậc gặp cơ lãnh ngộ, xử sự rất đặc cách,
riêng cho vào thất.
Sau khi đắc pháp, Sư chỉ một mình một bình bát tiêu dao ngoại vật.
Lúc Lý Thái Tổ còn nhỏ, Sư trông thấy
dung nghi dị thường, bèn bảo: “Đứa bé này cốt tướng phi thường, sau này
ắt làm chủ nước Nam.”
Thái Tổ nghe nói thất kinh thưa: “Nay
Thánh thượng anh minh còn tại vị, chốn hải nội đều trị yên, cớ sao Thầy
lại nói lời phải tội tru di này?”
Sư bảo: “Mệnh trời đã định, người dù muốn tránh cũng chẳng được nào.”
Đến khi Thái Tổ lên ngôi, thường thỉnh
Sư vào cung thưa hỏi yếu chỉ Thiền và ân lễ Sư rất thâm hậu. Vua xuống
chiếu trùng tu ngôi chùa Kiến Sơ làng Phù Đổng là nơi Sư trụ trì.
Sau không rõ Sư tịch ở đâu và lúc nào.
(Thiền Tông VN)
*
* *
NHÀ TRẦN
Mở đầu triều đại nhà Trần là Trần Thái
Tông.(1225-1258), húy là Trần Cảnh, con của Trần Thừa, cũng là quan viên
của triều Lý; chồng của bà Lý chiêu Hoàng; do Trần Thủ Độ mưu tính sắp
đặt, được Lý chiêu Hoàng nhường ngôi, Trần Thái Tông khai sơn triều đại
nhà Trần từ đó, và Lý Chiêu Hoàng là triều đại nhà Lý cuối cùng.
Sau khi Trần Thừa mất, Trần Thủ Độ trở
thành nhiếp chính cho Thái Tông đến khi ông trưởng thành mà không hề có ý
cướp ngôi dù quyền lực đang trong tay mình. Chính vì vậy mà được nhà
vua sủng ái vì đã giúp vua lấy được lòng thiên hạ.
Do lấn quyền hoàng cung, Trần Thủ Độ đã
phế Chiêu Hoàng xuống làm công chúa do không có con trai nối dõi tông
đường, và ép Thái Tông lấy chị dâu đang có mang ba tháng, làm hoàng hậu;
anh của Thái Tông và cũng là chồng của Thuận Thiên phu nhân bất bình,
khởi binh dấy loạn. Thái Tông cũng phiền muộn, khó xử, tìm lên núi Yên
Tử xuất gia, nhưng triều đình cùng Trần Thủ Độ đích thân tìm đến làm mất
sự thanh tịnh chốn thiền môn, nên sư Phù Vân khuyên Thái Tông nên lấy ý
dân làm gốc, là vua không tự làm theo ý mình.
Ảnh hưởng Phật giáo sâu đậm, vừa lên ngôi,
Ngài đã ra sức xây dựng chùa miếu, tạo lập pháp khí, hộ trì Tam Bảo hết
lòng. Chẳng những thế, thể hiện việc am tường nội điển và hành trì,
Ngài trước tác các bộ sách: "Thiền tôn chỉ nam, Khóa Hư lục, lục thời sám hối khoa nghi, Trần Thái Tông ngự tập"; ngoài ra ông còn đề tựa kinh Kim Cang, một số bài luận về tọa thiền niệm Phật và khuyên răn tửu sắc.
Theo GS. Trần Văn Giáp thì ông còn viết: Quốc triều thông chế, Kiến trung thường lễ.
Đối với xã tắc, Trần Thái Tông (Trần
Cảnh) có nhiều đóng góp khiến sử sách phải ghi nhận là một vị “Vua khoan
nhân đại độ, có lượng đế vương, cho nên có thể sáng nghiệp truyền dòng,
lập kỷ dựng cương, chế độ nhà Trần thực là to lớn vậy”
(Đại Việt sử ký toàn thư)
Ông từng đánh thắng quân Mông và bắt nhốt các nhà ngoại giao Mông Cổ.
Ông ở ngôi được 32 năm, nhường ngôi cho
thái tử Trần Hoàng, tức Trần Thánh Tông, lên làm Thái Thượng Hoàng được
19 năm; Tuy ở chốn Thiền lâm, ông vẫn quan tâm hướng dẫn vua Trần Thánh
Tông về đạo đức, vương nghiệp và chính trị.
TRẦN THÁNH TÔNG:
Trần Thánh Tông (1240 – 1290) là vị
Hoàng đế thứ hai của nhà Trần (sau vua cha Trần Thái Tông và trước vua
con Trần Nhân Tông), ở ngôi từ năm 1258 đến 1278 và làm Thái thượng
hoàng từ năm 1278 (sau khi Thượng hoàng Thái Tông mất. Ông là một vị
Hoàng đế tài năng, có công rất lớn trong công cuộc xây dựng đất nước.
Dưới triều đại của ông, nước Đại Việt thái bình và quân Nguyên-Mông
không sang xâm lược nữa. Không những đẩy mạnh chính sách phát triển kinh
tế và giáo dục, ông đã thực hiện chính sách đối ngoại khôn khéo, nhưng
cương quyết, đề cao quyền lợi của Đại Việt chứ quyết không để cho người
Nguyên sang thôn tính. Trong thời gian làm Thái thượng hoàng, ông đã
cùng với vua con Nhân Tông lãnh đạo đất nước giành chiến thắng trong hai
cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông.
Ông là vị Hoàng đế có lòng thương dân và thân thiết với anh em trong Hoàng gia.
(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
Ông là vị vua thân thiện, hòa đồng với mọi người, ngoại trừ lúc lâm triều mới phân ngôi thứ, ông nói:
"Thiên hạ là của ông cha để lại, nên để anh em cùng hưởng phú quý chung".
Ông cũng quan tâm tới giáo dục, quốc phòng
và đời sống người dân, vì thế trong triều ra đến xã hội, đều an hòa,
giặc không dám dòm ngó. Về quốc phòng, ông cũng rèn luyện tập trận, đúc
súng đóng thuyền. Vua lệnh cho Lê Văn Hưu soạn bộ quốc sử từ thời Triệu
Vũ Vương đến Lý Chiêu Hoàng gồm 30 quyển.
Nhà vua quan hệ ngoại giáo khá mềm mỏng,
khôn khéo cho dù Nam Tống đang suy vi, mãi đến khi Nam Tống bị Nguyên
Mông thôn tính, một số quan lại xin tỵ nạn, vua trọng dụng, ban chức
tước phẩm trật mà vẫn cho người theo dõi quản lý. Quân Nguyên Mông dùng
ngoại giao để khuất phục vua Thánh Tông không được, bèn dấy binh ứng
chiến, nên đất nước một lần nữa đứng trước nguy cơ bị xâm lược.
Năm 1278, Thánh Tông nhường ngôi cho con
là Trần Nhân Tông, lên làm Thái thượng hoàng, tuy ẩn tu, nhưng ngài vẫn
quan tâm đến an nguy của đất nước. Năm 1284 chiến tranh xẩy ra giữa Đại
Việt và Nguyên Mông, vua Nhân Tông và thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông
được Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn hỗ trợ đã đánh dẹp hai lần quân
Nguyên Mông. Sau khi đất nước vắng bóng ngoại xâm, Trần Thánh Tông lui
về ẩn cư, sáng tác thơ văn; tác phẩm lưu truyền là: "Hành cung Thiên
Trường, Cung viên nhật hoài cực". Và:
* Di hậu lục (Chép để lại cho đời sau)
* Cơ cầu lục (Chép việc nối dõi nghiệp nhà)
* Thiền tông liễu ngộ (Bài ca giác ngộ Thiền tông)
* Phóng ngưu (Thả trâu)
* Chỉ giá minh (Bài minh về sự cung kính)
* Trần Thánh Tông thi tập (Tập thơ Trần Thánh Tông)
Và một số thư từ ngoại giao, nhưng tất cả
đều đã thất lạc, chỉ còn lại 6 bài thơ được chép trong Việt âm thi tập
(5 bài) và Đại Việt sử ký toàn thư (1 bài).
Đại Việt Sử ký Toàn thư của nhà Hậu Lê ca ngợi Trần Thánh Tông. “trung hiếu nhân thứ, tôn hiền trọng đạo, cha khai sáng trước, con kế thừa sau, cơ nghiệp nhà Trần được bền vững”, tuy nhiên trên quan điểm Nho giáo lại phê phán ông sùng đạo Phật “thì không phải phép trị nước hay của đế vương”.
Sử gia Ngô Sĩ Liên ca ngợi công lao của ông:
Thánh Tông nối nghiệp Thái Tông, giữa
chừng gặp giặc cướp biến loạn, ủy nhiệm cho tướng thần cùng với Nhân
Tông giúp sức làm nên việc, khiến thiên hạ đã tan lại hợp, xã tắc nguy
lại an. Suốt đời Trần không có việc giặc Hồ nữa, công to lắm.
Ngô Sĩ Liên
Thánh Tông là vị hoàng đế hiền tài; đối
với anh em họ hàng thân mật, không phân biệt chúa tôi, chỉ kể tình ruột
thịt đối với dân trong nước mở mang kinh tế và việc học hành… Ông lại
chỉnh đốn võ bị, chống ngoại xâm, biết ngoại giao mềm mỏng mà bảo vệ
quyền lợi của đất nước, dùng kế hoãn binh trong nhiều năm. Khi chiến
tranh nổ ra, ông cùng quân dân đồng cam cộng khổ để đi đến thắng lợi, có
thể coi là vua tài đức toàn vẹn. (Bách khoa toàn thư)
(Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử)
Ngài tên huý là Khâm, con trưởng vua Trần
Thánh Tông và Nguyên Thánh hoàng thái hậu, sanh ngày mười một tháng mười
một năm Mậu Ngọ (1258). Ngài tuy ở địa vị sang cả mà tâm hâm mộ Thiền
tông từ thuở nhỏ.
Khi còn làm Thái tử Ngài đã tham học thiền
với Thượng Sĩ Tuệ Trung, thâm đắc đến chỗ thiền tuỷ và kính lễ Thượng
Sĩ làm thầy. Đến khi làm vua Ngài họp các thiền sư để bàn đạo lý.
Năm 21 tuổi Ngài lên ngôi hoàng đế (1279).
Khi giặc Nguyên sang quấy rối, Ngài phải xếp việc kinh kệ để lo giữ gìn
xã tắc. Nhờ tình đoàn kết quân dân, Ngài đã hai lần (1285, 1288) đuổi
được quân Nguyên, giữ gìn trọn vẹn đất nước. Dưới triều đại Ngài, hai
cuộc hội nghị nổi tiếng được ghi vào sử sách là: hội nghị các tướng lãnh
ở Bình Than, hội nghị những bô lão trong cả nước ở Diên Hồng để bàn kế,
tỏ quyết tâm chống giặc.
Đến tháng 10 năm Kỷ Hợi 1299, Ngài xuất
gia vào tu ở núi Yên Tử. Ở đây, Ngài chuyên cần tu tập theo hạnh đầu đà
(khổ hạnh), lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà. Sau đó Ngài lập chùa, cất
tinh xá, khai giảng để tiếp độ chúng Tăng.
Vua Trần Nhân Tông viết trong bài phú nổi tiếng "Cư Trần Lạc Đạo":
Đến năm 1304 Ngài dạo đi các nơi khuyên dân dẹp bỏ những miếu thờ thần không chánh đáng.
Đến ngày mùng một tháng mười một, trước khi viên tịch Ngài nói kệ:
Nhất thiết pháp bất sanh,
Nhất thiết pháp bất diệt.
Nhược năng như thị giải,
Chư Phật thường hiện tiền.
Hà khứ lai chi liễu dã.
Dịch:
Tất cả pháp chẳng sanh,
Tất cả pháp chẳng diệt.
Nếu hay hiểu như thế,
Chư Phật thường hiện tiền.
Nào có đến đi ấy vậy.
Ngài còn lưu lại những tác phẩm:
1. Thiền Lâm Thiết Chuỷ Ngữ Lục
2. Đại Hương Hải Ấn thi tập
3. Tăng già toái sự
4. Thạch Thất Mị ngữ (do Pháp Loa soạn lại lời của Ngài)
"Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền."
Dịch:
"Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,
Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền.
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền."
Chư Phật thường hiện tiền.
Nào có đến đi ấy vậy.
(Trích thientongvietnam.net)
Công trạng đối với Phật giáo to lớn thì
việc xã tắc không thể nói là nhỏ khi hai lần đánh đuổi quân Nguyên Mông.
Bản chất của vua là nông dân, tục xâm mình thời bấy giờ từ cung đình
đến dân dã đều nhất nhất. Vì thế vua rất được lòng dân. Nhân cách lãnh
đạo đã thu phục được nhiều hiền nhân anh tài như: Thái sư Trần Quang
Khải, danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần
Khánh Dư, Trần Nhật Duật..., về văn học có các văn thi sĩ uyên bác như
Nguyễn Thuyên, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Riêng Nguyễn Thuyên là
người khởi đầu dùng chữ Nôm làm thơ phú, văn hay như Hàn Dũ bên Trung
Quốc ngày xưa nên Nhân Tông cho đổi tên là họ Hàn. (danh nhân V.N-Nguyễn
Đức Hiệp). Quân Mông "đốt phá hết chùa miếu trong nước, khai quật phần
mộ tổ tiên, cướp bóc dân gian, phá phách sản nghiệp trăm họ, mọi tàn ác
không việc nào trừ.... đến độ hoàng thành cung điện tan hoang, vua phải
tạm ngự ở Lăng thị vệ". Thế mà khi thắng giặc, vua vẫn giữ hòa khí,
khiêm nhượng; lấy hoàng bào phủ đầu Toa Đô đem chôn cất cẩn thận. Sau
chiến chinh, chính sách an dân áp dụng linh hoạt triệt để, miễn giảm
thuế tô. Giảm thiểu cơ cấu hành chánh thật gọn nhẹ. Trần Nhân Tông lấy
Trung hiếu làm đầu, khi về ngôi Thái thượng Hoàng, ngài vẫn khuyên nhũ
Trần Anh Tông theo nề nếp đạo đức, nhưng rất nghiêm với việc ăn chơi say
sưa của Anh Tông. Một hôm Anh Tông say khướt, bị Thái thượng Hoàng
khiển trách. Vua bảo:
"Trẫm còn có con khác, cũng có thể nối ngôi được. Trẫm đang sống mà ngươi còn như thế, huống chi sau này?".
Vua dập đầu tạ tội.
Khi ông là Thượng hoàng, đối với con ông
là Trần Anh Tông, ông để tự do nhưng đều khuyên bảo những điều nhân đức
về phép trị dân. Sử sách chép rằng, Anh Tông là người có hiếu nhưng
thường uống rượu và lẻn đi chơi đêm khắp kinh thành, đến gà gáy mới về.
Vì thế có lúc Nhân Tông phải có thái độ cứng rắn.
Ngoài việc lãnh đạo đất nước chống ngoại
xâm, quan tâm đến đời sống nhân dân, Ngài còn là một nhà thơ Thiền nổi
tiếng, cũng là giáo chủ thiền phái Trúc Lâm Yên tử cho quảng đời còn lại
mà sách sử vẫn còn ghi nhận. Từ Yên Tử Sơn, lâu lâu Nhân Tông đi ngao
du các nơi, thăm thắng cảnh thanh bình của quê hương mình. Lúc qua Thiên
Trường vào một buổi chiều, trong cảnh tranh tối tranh sáng của đồng quê
Việt Nam, dưới con mắt Thiền của mình, ông đã xúc cảm làm một bài thơ
tựa đề "Thiên Trường vãn vọng"
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lý quy ngưu tận
Bạch lộ song song phi hạ điền.
(Xóm trước thôn sau tựa khói lồng
Bóng chiều dường có lại dường không
Mục đồng sáo vẵng trâu về hết
Cò trắng từng đôi hạ xuống đồng)
Trong đời Trần, vua Nhân Tông là một vị đế
vương thừa hưởng tính nhân hậu, tài hoa và phóng khoáng của vua cha
Trần Thái Tông, đem lại vẻ vang cho tổ quốc, tạo sự kính nể của bắc
phương.
Chính vì thế mà hậu học không tiếc lời
ngợi ca công đức của một vị vua hiển Thánh, một quôc vương hiển Phật qua
các bài tham luận nhân ngày hội thảo khoa học về Phật hoàng Trần nhân
Tông.
Trần-Anh-Tôn (1293-1314):
Trần-Anh-Tôn là vị vua thứ tư của nhà
Trần, kế vị vua Trần-Nhân-Tôn. Ngài là đệ tử của Pháp-Loa tôn-sư, nên
rất tinh thông về Phật-pháp. Noi gương phụ vương là vua Trần-Nhân-Tôn,
Ngài đã hăng hái truyền bá Phật Giáo trong nước.
Cũng như vua cha Nhân Tông, ông là một vị
vua anh minh. Trong triều lại có những người tài giỏi hết lòng giúp việc
nước. Về văn có Trương Hán Siêu,Đoàn Nhữ Hài; võ có Phạm Ngũ Lão, Lê
Trung Hiển đều là những người tài giỏi. Thời đó vua hiền, tôi trung,
phép tắc nghiêm trang, thưởng phạt phân minh, chính trị không có điều gì
hồ đồ. Việc học hành mở mang rộng rãi, cho nên những người có tài văn
học như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn đều được thi đỗ, ra làm quan
giúp việc triều đình. Thời Anh Tông cai trị tiếp tục giai đoạn thịnh trị
của nhà Trần
(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia).
Sau khi thỉnh được đại tạng kinh ở Trung
Hoa về, Ngài sắc in nhiều bản và dâng cho Phật Hoàng Trần-Nhân-Tôn, Ngài
lại còn tuyên thiết những đàn tràng lớn để hành lễ và phát chẩn cho dân
nghèo.
Cũng như vua cha Nhân Tông, ông là một vị
vua anh minh. Trong triều lại có những người tài giỏi hết lòng giúp việc
nước. Về văn có Trương Hán Siêu, Đoàn Nhữ Hài; võ có Phạm Ngũ Lão, Lê
Trung Hiển đều là những người tài giỏi. Thời đó vua hiền, tôi trung,
phép tắc nghiêm trang, thưởng phạt phân minh, chính trị không có điều gì
hồ đồ. Việc học hành mở mang rộng rãi, cho nên những người có tài văn
học như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn đều được thi đỗ, ra làm quan
giúp việc triều đình. Thời Anh Tông cai trị tiếp tục giai đoạn thịnh trị
của nhà Trần.
(Bách khoa toàn thư)
Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư dù có khen
nhưng vẫn phê phán ông là quá mộ đạo Phật: "Vua khéo biết kế thừa, cho
nên thời cuộc đi đến thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật chế
độ ngày càng thịnh vượng, cũng là bậc vua tốt của triều Trần. Song, tụ
họp nhà sư trên núi Yên Tử, làm nhọc sức dân dựng gác Ánh Vân, thì chẳng
phải tỳ vết nhỏ trong đức lớn đó sao?"
Tuy vậy, đến đời Anh-Tôn, Ðạo Phật không còn giữ được cái sắc thái rực-rỡ như đầu đời Trần nữa.
Nguồn: http://www.quehuong.org.vn.
Kể từ Trần Hiến Tông, đời vua thứ 6 của
nhà Trần, Phật giáo bắt đầu suy vi do vua bê tha sa đọa, không lo việc
nước, không được lòng dân, không trọng dụng các Thiền sư cao Tăng tham
chính như các tiên đế, từ đó đất nước rối loạn, Phật giáo suy vi.
Triều Trần kể từ Trần Thái Tông Đến Trần Thiếu Đế là 12 đời vua, trị vì được 175 năm.
Nhà Trần là triều đại phong kiến trong
lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi vua Thái Tông lên ngôi năm 1225 sau khi
giành được quyền lực từ tay nhà Lý, trải qua 12 triều vua và chấm dứt
đời vua Thiếu Đế, lúc đó mới có 5 tuổi bị ép thoái vị vào năm 1400 để
nhường ngôi cho ông ngoại là Hồ Quý Ly- tức Lê Quý Ly – tổng cộng là 175
năm. Như vậy qua 12 triều đại nhà Trần, chỉ có 3 triều vua đầu là Phật
giáo hưng thịnh, 3 đời sau dần dần suy vi.
Tóm kết LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM DƯỚI THỜI NHÀ TRẦN (1225-1400)
Trong đầu đời nhà Trần, có nhiều vị vua
rất sùng mộ Phật-Pháp và đã có công lớn đối với việc truyền bá Ðạo Phật
trong nước. Các vị vua nhà Trần có công với sự truyền bá Phật-Pháp:
1. VUA TRẦN THÁI TÔN (1225-1258):
Trần-Thái-Tôn tên húy là Trần-Cảnh, chồng
bà Lý-Chiêu-Hoàng. Sau khi được vợ nhường ngôi, Trần-Thái-Tôn trở thành
vị vua khai nguyên đời Trần. Ngài là một vị quốc vương hiếu đạo rất sâu
xa. Khi mới lên ngôi, Ngài đã lo việc truyền bá Ðạo Phật bằng cách lập
chùa, đúc chuông và hộ trì Phật, Pháp, Tăng. Ngài lại còn soạn được hai
tập sách rất có giá trị và gây ảnh hưởng quý báu cho việc truyền bá
Phật-Pháp thời bấy giờ, là quyển: "Thiền-tôn chỉ Nam" và quyển "Khóa
hư". Tập Thiền-tôn chí Nam nói rõ về đạo lý tu thiền; còn tập Khóa-hư
giải rõ hành-tướng của cái khổ: sanh, lão, bệnh, tử. Hai tập ấy, ngày
nay vẫn còn lưu truyền.
2. VUA TRẦN NHÂN TÔN (1278-1293):
Trần-Nhân-Tôn là vị vua thứ ba đời Trần.
Sau khi đã đánh bại quân Mông-Cổ một cách oai hùng, Ngài truyền ngôi lại
cho con và vào tu ở núi Yên-Tử. Ngài thường đi khắp đó đây để bài trừ
những hình thức mê-tín dị-đoan trong dân gian, thiết lập tu-viện, thuyết
pháp-độ-sanh, mở rộng những trạm phát thuốc để cứu giúp người tật bệnh.
Sau Ngài truyền pháp lại cho Tôn-Giả Pháp-Hoa và tịch ở am Ngọc-Vân
trong lúc đang đi du hóa. Ngài chính là sư-tổ phái Trúc-Lâm.
3. VUA TRẦN ANH TÔN (1293-1314):
Trần-Anh-Tôn là vị vua thứ tư của nhà
Trần, kế vị vua Trần-Nhân-Tôn. Ngài là đệ tử của Pháp-Loa tôn-sư, nên
rất tinh thông về Phật-pháp. Noi gương phụ vương là vua Trần-Nhân-Tôn,
Ngài đã hăng hái truyền bá Phật Giáo trong nước.
Sau khi thỉnh được đại tạng kinh ở Trung
Hoa về, Ngài sắc in nhiều bản và phát cho Phật Hoàng Trần-Nhân-Tôn, Ngài
lại còn tuyền thiết những đàn tràng lớn để hành lễ và phát chẩn cho dân
nghèo.
Tuy vậy, đến đời Anh-Tôn, Ðạo Phật không còn giữ được cái sắc thái rực-rỡ như đầu đời Trần nữa.
(Tạng thư Phật Học- Thích THIỆN HOA)
Tuy nhà Trần có 12 vua, nhưng chỉ có 3 vị
vừa có công với đất nước lại vừa xiển dương Phật giáo một cách xuất sắc,
đã nêu như trên.
1. Trần Thái Tông (1226 - 1258)
2. Trần Thánh Tông (1258 - 1278)
3. Trần Nhân Tông (1278 - 1293)
4. Trần Anh Tông (1293 - 1314)
5. Trần Minh Tông (1314 - 1329)
6. Trần Hiến Tông (1329 - 1341)
7. Trần Dụ Tông (1341 - 1369)
8. Trần Nghệ Tông (1370 - 1372)
9. Trần Duệ Tông (1373 - 1377)
10. Trần Phế Đế (1377 - 1388)
11. Trần Thuận Tông (1388 - 1398)
12. Trần Thiếu Đế (1398 - 1400)
TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ (1230 - 1291)
Tên thật là Trần Tung (hay Trần Quốc
Tung), là một thành viên trong hoàng tộc nhà Trần với tước hiệu Hưng
Ninh Vương và là một thiền sư Việt Nam. Ông là người hướng dẫn vua Trần
Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua
sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Tiểu sử:
Ông là người Tức Mặc, phủ Thiên Trường,
nay thuộc tỉnh Nam Định. Ông là con trưởng của An Sinh vương Trần Liễu
(nguyên tác chép An Ninh vương), anh ruột của Hưng Đạo Vương Trần Quốc
Tuấn và Hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm húy Thiều, vợ vua Trần Thánh
Tông.
Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông
lần 2 (1285) và lần 3 (1287-1288), ông đều trực tiếp tham gia. Sử chép
rằng ngày 10 tháng 6 năm 1285, ông cùng với Hưng Đạo Vương đem hơn hai
vạn quân giao chiến với tướng nhà Nguyên là Lưu Thế Anh và đuổi Thoát
Hoan chạy dài đến sông Như Nguyệt (sông Cầu). Trong cuộc kháng chiến lần
thứ ba, ông còn được giao những nhiệm vụ ngoại giao quan trọng, từng
đến đồn trại đối phương vờ ước hẹn trá hàng, làm cho họ mất cảnh giác,
sau đó cho quân đến đánh phá.
Sau khi kháng chiến thành công, ông được
phong chức Tiết độ sứ cai quản phủ Thái Bình. Nhưng không lâu sau ông
lại lui về ấp Tịnh Bang (nay ở huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng)
lập Dưỡng Chân trang để theo đuổi nghiệp thiền.
Năm 1291, Tuệ Trung thượng sĩ mất, thọ 61 tuổi.
Thiền:
Thời trẻ, ông không thích công danh, chỉ
ham nghiên cứu về Thiền. Sau, ông học đạo với thiền sư Tiêu Dao, vừa
thực hành giải thoát tâm trong đời sống gia đình theo hình thức cư sĩ,
vừa đảm trách các công việc xã hội mà triều đình giao phó. Ông được vua
Trần Thánh Tông nể vì do kiến thức uyên bác về nội ngoại điển, được vua
tôn làm đạo huynh. Ông sáng tác nhiều thi, kệ; một số được kiết tập
trong "Thượng sĩ ngữ lục" (Ngữ lục của Thượng sĩ) rất nổi tiếng.
Tư tưởng:
Do sinh ra trong một gia đình có nhiều
nghịch cảnh, sớm được theo học thiền sư Tiêu Dao và lại trực tiếp tham
dự vào những thời khắc quyết định vận mệnh đất nước nên ông nhận rõ chân
tính cuộc đời và chọn lối sống hòa ái, tự tại. Tư tưởng chính của Tuệ
Trung Thượng Sĩ thể hiện qua lời đáp dành cho câu hỏi tông chỉ thiền là
gì của vua Trần Nhân Tông: "Hãy quay về tự thân mà tìm lấy tông chỉ ấy, không thể đạt được từ ai khác".
NHÀ HẬU LÊ
Phật giáo vào thời hậu Lê mất thế đứng so
với Nho giáo mà thế kỷ X-XIV là một thời kỳ vô cùng rạng rỡ; Lê lợi muốn
xây dựng một thể chế quân chủ phong kiến, do vậy cần dùng học thuyết
Nho gia để phát triển; Phật giáo bị hạn chế từ kiến thiết, nghi lễ và
hoạt động xã hội. Tuy không còn tham chính như xưa, Phật giáo vẫn lan
tỏa trong nhân gian qua tín ngưỡng từ bi, nhân quả, luân hồi...
Đến khi Nam-Bắc phân tranh, tình hình xã
hội biến đổi, Phật giáo có cơ may phát triển nhờ triết thuyết nhân quả
đủ để an ủi nhân tâm giữa lúc phân ly loạn lạc nhiều thống khổ.
Mạc Đăng Dung tiếm ngôi nhà Lê nên xẩy ra
tranh chấp giữa nhà Mạc và nhà Lê suốt 60 năm, nhân dân đồ thán; nhà Lê
nhờ họ Trịnh đánh dẹp nhà Mạc, sau đó giữa Trịnh và Nguyễn lại tiếp tục
xẩy ra tranh chấp suốt 2 thế kỷ làm xã hội rối ren, nhân dân đồ thán.
Tuy vậy, thời kỳ nầy Phật giáo lại phát
triển khá tốt. Phật giáo thời nầy không chỉ là Phật giáo của giới thượng
lưu quan quyền như thời Lê Lý Trần mà là phật giáo xã hội hóa, bàng bạc
khắp trong nhân gian làng xã.
PHẬT GIÁO THỜI HẬU LÊ
Lê Lợi chiến thắng giặc ngoại xâm và lên
ngôi vua, đã đánh dấu bước chuyển quan trọng trong đời sống xã hội Việt
Nam. Trên lĩnh vực tôn giáo Phật giáo đã nhường bước cho Nho giáo, điều
này chủ yếu do đời sống chính trị xã hội Việt Nam quy định, đó là phải
xây dựng củng cố nhà nước phong kiến, kỷ cương xã hội, mà Nho giáo có
khả năng đáp ứng được. Tuy nhiên Nho giáo chỉ phổ biến chủ yếu ở tầng
lớp trên của xã hội, còn ở đại bộ phận dân cư tác động của Phật giáo khá
lớn.
Thời kỳ này Phật giáo dung nạp 3 yếu tố:
Tịnh, Thiền, Mật kết hợp cả tự độ, tự giác và giác tha. Bên cạnh đó nhà
Lê hạn chế tổ chức thi cử, một số lễ giáo, xây dựng chùa chiền…
Nhìn chung vai trò Phật giáo thời hậu Lê
đã bị giảm sút so với trước. Phật giáo không trực tiếp tham gia vào việc
triều chính như trước mà chủ yếu ảnh hưởng trong đời sống dân chúng.
(Đinh Kiều Nga)
Tiến sĩ Lê Thị Chiêng trong chuyên luận
ĐÔI ĐIỀU VỀ ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO THỜI KỲ NHÀ MẠC tại Hội thảo khoa học
Vương Triều Mạc trong lịch sử Việt Nam đã viết:
Nhà Mạc không ban hành chính sách cụ thể
về tôn giáo tín ngưỡng. Muốn tìm hiểu vấn đề này cần dựa trên những việc
làm thực tế của vua quan, các thành viên hoàng tộc. Ngay sau khi nắm
quyền, Mạc Đăng Dung đã cho sửa sang lăng miếu của vua Lê ở Nam Kinh và
định kỳ cúng tế. Có người cho việc làm này chỉ là sự khôn khéo của kẻ
tiếm quyền, nhằm che mắt thế gian, mong yên lòng người, tránh sự phản
kháng của quần thần nhà Lê. Nhưng đánh giá như vậy có thật khách quan
không? Nếu Mạc Đăng Dung không phải người nhân đức trung nghĩa như nói
trong chiếu nhường ngôi thì có làm như vậy không? Lịch sử Việt Nam đâu
phải không có chuyện, để tự tôn vinh, các triều đại sau đã triệt phá dấu
tích của các vương triều trước! Nên xem việc duy trì lễ cúng tế tông
miếu nhà Lê của Mạc Đăng Dung không phải chỉ để tri ân một triều đại, từ
đó ngài có ngôi cao. Lớn hơn thế, việc ngài làm là để ghi tạc công
trạng của triều đại nhà Lê với lịch sử dân tộc, lưu truyền đến đời sau.
Biết đâu đấy, việc làm này cũng là để bảo tồn hào khí hùng thiêng – sức
mạnh trường tồn của đất nước.
Tiếp đó vua Mạc Đăng Dung lệnh cho trưởng
thái giám hiệu Thụy Trúc thiền sư xây dựng chùa bà Đinh (chùa Thiên Phúc
- Kiến Thụy - Hải Phòng). Có thể coi việc làm này là sự mở đầu cho công
cuộc sửa sang, xây dựng lại những ngôi chùa đã bị phá bỏ trong thời kỳ
thuộc Minh và lãng quên bởi nhà Lê sơ, dọn đường cho sự phát triển của
đạo Phật. Tư liệu văn bia thời Mạc là minh chứng cho sự phát triển mạnh
mẽ trở lại của đạo phật. Trong số 146 bia thời Mạc còn lại tới nay có
tới 109 bia chùa với nội dung về ruộng đất chùa, việc xây dựng và người
hưng công.
Đi tiên phong cho việc xây dựng chùa tháp,
tạc tượng, đúc chuông là các thành viên của hoàng tộc nhà Mạc, tiếp đó
là những người hiển danh có điều kiện kinh tế, cuối cùng là nhân dân địa
phương. Theo tư liệu văn bia, có hàng trăm thành viên trong hoàng tộc
và các đại thần của triều đình tham gia tu bổ và xây chùa Phật.
Trong số những thành viên của hoàng tộc
cung tiến tiền của xây dựng chùa trước hết phải kể đến các vị đương kim
hoàng thượng như: Mạc Phúc Nguyên, đã ban “Cấm tiền” cho chùa Linh Cảm
(Từ Sơn – Bắc Ninh, 1557), Mạc Mậu Hợp cúng 20 lạng bạc vào chùa Hoa Tân
(Hải Phòng, năm 1582). Đặc biệt, Thái Hoàng Thái Hậu Vũ Thị Ngọc Toàn
là người được xem là người cung tiến nhiều nhất hoàng tộc. Bà đã cúng 30
mẫu ruộng và 6000 lá vàng cùng bạc tiền cho trên chục ngôi chùa ở khu
vực Dương Kinh và vùng phụ cận. Do công đức xây chùa bà được dân gian
tôn phong “là mẫu nghi thiên hạ, là Phật sống trên trần gian”. Chính vì
lẽ đó bà Thái Hoàng Thái Hậu được dân làng nhiều nơi tạc tượng thờ còn
để lại đến ngày nay ở một số chùa ở thành phố Hải Phòng.
Vị Thái hoàng Thái Hậu này còn tham gia
xây chùa Thiên Phúc (như đã nói ở trên) cùng các thành viên hoàng tộc
khác như: Hoàng Thái Hậu họ Phan, Khiêm Thái Vương họ Mạc, Tĩnh Quốc
Thái phu nhân họ Nguyễn, Tu Hòa Thái Trưởng công chúa họ Mạc, Bảo Gia
thái trưởng công chúa họ Mạc, Phúc Thành thái Trưởng công chúa họ Mạc,
Khiêm Thái Vương phi họ Mạc,… Tổng cộng 33 người. Đặc biệt bà Quận công
Mạc Ngọc Liễn và Phúc Thành Thái trưởng công chúa tham gia xây dựng hàng
chục ngôi chùa, quán, trong đó có Ninh Tiên. Tình cảm và niềm tin tôn
giáo khiến họ trở thành tín đồ có pháp danh: Đức Quảng (Mạc Ngọc Liễn)
và Từ Đức (phúc Thành) như nhà tu hành thực thụ. Các thành viên trong
hoàng tộc đã công đức xây khoảng 80/168 ngôi chùa được xây dựng thời kỳ
này.
Sự hưng khởi của đạo Phật vào thời nhà Mạc
còn thể hiện ở chính sách ruộng đất. Nhà nước cho phép cá nhân cúng
ruộng vào chùa dưới dạng làm công đức và đặt hậu. Chính vì vậy, dưới
thời Mạc hầu như chùa nào cũng có ruộng, trong đó nhiều chùa có số ruộng
lớn hàng chục mẫu như: chùa Pháp Vũ (Thường Tín – Hà Nội) 70 mẫu, chùa
Hoa Tân (Hải Phòng) 50 mẫu, chùa Nghiêm Quang (Hải Phòng) 31 mẫu, chùa
Thiên Phúc (Hải Phòng) 25 mẫu 1 sào 2 thước.
Ở những nơi xa kinh kỳ như Ninh Bình, Lạng
Sơn, Tuyên Quang, Phú Thọ, việc xây dựng chùa đều do các quan địa
phương khởi xướng với sự tham gia đóng góp của nhân dân trong làng xã.
Trong cuốn Mỹ thuật thời Mạc, các nhà
nghiên cứu từ góc độ mỹ thuật thời Mạc trên các đình chùa, tượng Phật,
tượng thờ, gốm sứ đã kết luận thời nhà Mạc trị vì là thời đại chấn hưng
của Phật giáo sau hàng trăm năm bị ức chế bởi chủ trương dương Nho ức
Phật của nhà Lê sơ. Sự hưng thịnh này đã tạo ra sức sống mãnh liệt cho
một nền mỹ thuật mang đậm bản sắc dân tộc, dân gian.
PHẬT GIÁO THỜI NGUYỄN
Triều đình Nguyễn không được dân ủng hộ,
nên luôn gặp sự phản kháng của người dân, vì vậy mà triều đình Nguyễn
muốn lặp lại cơ cấu tổ chức nhà nước, đi đôi với nó là các chính sách hà
khắc, hạn chế đạo Phật, sư sãi…. Với đạo Phật, triều Nguyễn đã phê phán
cả giáo lý và hành đạo của Phật giáo. Song Phật giáo vẫn có chỗ đứng
ngay trong cung đình, trong gia đình triều thần, trong các nho sĩ quan
lại. Do vậy việc tu sửa chùa chiền thời này vẫn được diễn ra.
Phật giáo đã thấm sâu vào tư tưởng nhân
dân, nó được quan hệ làng xã lưu giữ, duy trì. Trong quan niệm của nhân
dân, trong văn học… đều mang dấu ấn tư tưởng của Phật giáo (Đinh Kiều
Nga)
PHẬT GIÁO THỜI KỲ KHỞI NGHĨA NÔNG DÂN (nửa cuối thế kỷ XVIII)
Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII là xã
hội sôi động của những cuộc đấu tranh, những biến động liên tục. Khởi
nghĩa Tây Sơn thắng lợi đem lại những tư tưởng mới cho lịch sử Việt Nam,
các trí thức thời này đã tìm cách kiến giải mới về xã hội về tôn giáo,
nhưng tôn giáo thời kỳ này vẫn chưa thoát khỏi tư tưởng tam giáo đồng
nguyên.
PHẬT GIÁO THỜI KỲ PHÁP THUỘC (nửa cuối thế kỷ XIX đến thế kỷ XX)
Nhà Nguyễn ngày càng bất lực trước sự phát
triển của xã hội, của sự tác động của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Nhu
nhược trước sự xâm chiếm của thực dân Pháp với dụng ý tách đạo với đời,
đưa quần chúng xa lánh đời sống chính trị.
Sự chấn hưng của Phật giáo đã tạo bước
quan trọng của quan niệm dấn thân, gắn hoạt động tôn giáo với hoạt động
chính trị xã hội, gắn ý thức dân tộc với ý thức Phật giáo. Phật giáo đã
tạo ra những phong trào lớn cho lịch sử Phật giáo và lịch sử dân tộc
thời ấy.
Qua các phong trào Phật giáo, đã thành lập
được các tổ chức giáo hội, tuy chưa có sự thống nhất chung của Phật
giáo trong cả nước, song đã có sự quan hệ trao đổi giữa các tổ chức giáo
hội này.
Về giáo lý đã đặt ra những vấn đề lớn phức
tạp mà từ trước đến nay chưa hề có, đó là: Phật giáo vô thần hay hữu
thần, hoặc nhân duyên luận là duy vật hay duy tâm, có linh hồn hay không
có linh hồn… Trong những cuộc tranh luận trên có cả sự tham gia của trí
thức cộng sản, họ đã gây được ảnh hưởng trong cuộc tranh luận trên.
Nhìn lại lịch sử Phật giáo Việt Nam cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chúng ta thấy rằng Phật giáo có những biến đổi
lớn đã phân hóa cả về xu hướng chính trị xã hội, về giải thích, tiếp
thu giáo lý… tình hình ấy kéo dài và phát triển về sau này. (Đinh Kiều
Nga)
NHÀ NGUYỄN
Nhà Nguyễn là triều đại quân chủ cuối cùng
cai trị Việt Nam trong lịch sử Việt Nam từ năm 1802 đến 1945, được
thành lập sau khi hoàng đế Gia Long lên ngôi năm 1802 sau khi đánh bại
nhà Tây Sơn và sụp đổ hoàn toàn khi hoàng đế Bảo Đại thoái vị vào năm
1945 – tổng cộng là 143 năm. Triều đại Nhà Nguyễn là một triều đại đánh
dấu nhiều thăng trầm của lịch sử, đặc biệt là cuộc xâm lược của người
Pháp giữa thế kỷ 19.
Triều nhà Nguyễn có thể được chia ra hai giai đoạn riêng biệt: Giai đoạn Độc lập và Giai đoạn bị đế quốc Pháp xâm lăng và đô hộ.
- Giai đoạn độc lập (1802-1858) là giai
đoạn mà các vua nhà Nguyễn đang nắm toàn quyền quản lý đất nước, kéo dài
56 năm và trải qua 4 đời vua, Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
- Giai đoạn bị Pháp xâm lăng và đô hộ
(1858-1945) là giai đoạn kể từ việc quân Pháp đánh Đà Nẵng và kết thúc
sau khi hoàng đế Bảo Đại thoái vị.
Bối cảnh
Vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 triều
Nguyễn độc tôn Nho học. Do đó mặc dù các chùa trong nước rất nhiều,
nhưng hoạt động riêng rẽ, không có một tổ chức, hệ thống liên lạc chặt
chẽ với nhau, sự giao lưu phát triển về Phật học cũng suy giảm.
Đặc biệt dưới thời Pháp thuộc, Việt Nam bị
chia làm ba miền, và chính quyền Bảo hộ tìm mọi cách phát triển Công
giáo, thì Phật giáo Việt Nam càng bị chèn ép. Một số ngôi chùa lớn cũng
bị phá hủy, Viện Viễn Đông Bác Cổ sưu tập các tài liệu, di vật nhưng
không với mục đích truyền bá Phật giáo cũng góp phần làm suy giảm các
kinh sách tại các chùa.
Tuy nhiên, một số giới Nho sĩ cũng dần quay lại với Phật giáo, cùng chung mục đích chống Pháp.
Hết Lê tới Nguyễn, đất nước lắm phen điêu
linh vì nạn ngoại xâm, nội loạn, cho đến phải chia đôi Trịnh, Nguyễn. Sự
tủi nhục, đau buồn của đất nước cũng là cái tủi nhục đau buồn của Phật
giáo Việt Nam.
(Thanh Từ toàn tập)
THỜI CHÚA NGUYỄN TẠI ĐÀNG TRONG
Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558 - 1613)
sau khi vào trấn thủ đất Thuận Hóa đã để ý đến việc lập chùa. Năm 1601,
ông bắt đầu cho xây dựng chùa Thiên Mụ ở xã Hà khê, huyện Hương Trà
(thuộc Huếngày nay). Năm sau, vào ngày Vu Lan, ông đến chùa Thiên Mụ lập
trai đàn và làm lễ bố thí, lại cho dựng chùa Sùng Hóa trên nền một ngôi
chùa cổ ở xã Triêm Ân, huyện Phú Vang. Năm 1607, cho lập chùa Bảo Châu ở
Trà Kiệu, Quảng Nam.
Năm 1609, lập chùa Kính Thiên ở Thuận Trạch, Quảng
Bình. Sau khi ông dựng xong dinh Quảng Nam ở xã Cần Húc lại cho lập một
ngôi chùa gần đó là chùa Long Hưng. Có thể ý chúa Nguyễn muốn lấy đạo
Phật làm chỗ dựa tinh thần cho công trình lập quốc của dòng họ Nguyễn.
Cho nên sau này, các chúa Nguyễn đều tỏ vẻ sùng đạo Phật. Còn nhân dân
Ðàng Trong cũng nghênh đón các vị du tăng Trung Quốc với một tấm lòng
chân thật, mặn nồng. Trong thời đại chuyển tiếp giữa hai triều Minh
Thanh, nhiều cao tăng Trung Hoa đã tới Ðàng Trong hành hóa. Một phần
quan trọng của những tổ đình hiện nay là do các thiền sư Trung Hoa sáng
lập.
Chúa Nguyễn Phúc Chu (1675-1725) là một
Phật tử pháp danh Hưng Long, còn có hiệu là Thiên Túng Ðạo nhân do ngài
Thạch Liêm, một danh tăng thuộc phái thiền Tào Ðộng Trung Quốc đặt, và
được xem là truyền thừa chánh tông đời thứ 30 của dòng thiền này. Bốn
năm sau khi lên ngôi chúa, ông thọ Bồ Tát giới và thường tự ví mình là
Duy Ma Cật. Ông chủ trương lấy tinh thần Phật pháp định hướng cho đời
sống dân tộc và có quan hệ mật thiết với sư Thạch Liêm. Ngài Thạch Liêm
đã có lần trình bày với chúa quan điểm trị nước theo tinh thần Phật
giáo, được giải thích qua ý nghĩa "trai giới" đối với một vị quân vương:
"Trai giới là làm cho quốc gia từ trên xuống dưới được thanh lý chỉnh
tề, không một người nào không ngồi đúng chỗ, không một việc nào chẳng
giải quyết được chính đáng. Làm được như thế mới là sự trai giới viên
mãn của một ông vua". Chúa Nguyễn Phúc Chu đã cho xây dựng và trùng tu
nhiều ngôi danh lam tại Thuận Hóa như trùng tu chùa Thúy Vân, chùa Linh
Mụ... Sai người sang Trung Quốc thỉnh bộ Ðại tạng kinh, xây Tàng kinh
lâu để bảo quản.
Dòng Lâm Tế, một nhánh Thiền nam tông quan
trọng của tổ sư Lâm Tế Nghĩa Huyền (?-866) từ Trung Hoa truyền vào Việt
Nam vào thế kỉ 17 rồi phát triển mạnh tại Đàng Trong. Từ thời điểm này
trở đi xuất hiện nhiều cao tăng thuộc dòng này như các sư Viên Minh và
Viên Khoan ở Quảng Trị, Minh Hoằng Tử Dung khai sơn chùa Từ Ðàm, sư Giác
Phong sáng lập chùa Báo Quốc tại Huế, sư Pháp Bảo lập chùa Chúc Thánh ở
Quảng Nam, sư Nguyên Thiều sáng lập các chùa Thập Tháp Di Ðà tại Bình
Ðịnh, chùa Quốc Ân và Hà Trung tại Thuận Hóa (Huế), trong đó ngài Nguyên
Thiều đã thành lập nên các dòng truyền thừa theo phả hệ Thập Tháp và
Quốc Ân, ngài Pháp Bảo thành lập nên dòng truyền thừa hệ Chúc Thánh.
Ngoài các dòng trên, tại Đàng Trong có một hệ truyền thừa ảnh hưởng rất
sâu rộng cho đến hôm nay, đó là dòng Liễu Quán, do sư Liễu Quán thành
lập.
THỜI CHÚA NGUYỄN TẠI ĐÀNG NGOÀI
Như đã biết đạo Phật thời Hậu Lê không còn
thịnh bằng thời Lý Trần. Khi đất nước chia hai thành Đàng Ngoài và Đàng
Trong thì tại Đàng Ngoài đạo Phật không phổ biến như ở Đàng Trong. Vào
thế kỷ 17, dòng Thiền Tào Động (do các ngài Tào Sơn Bản Tịch (840-901)
và Ðộng Sơn Lương Giới (807-869) sáng lập từ Trung Hoa truyền vào Việt
Nam và có nhiều ảnh hưởng tại Đàng Ngoài. Nhiều chùa ở Hà Nội như chùa
Trấn Quốc, Hàm Long, Hòe Nhai... đến nay vẫn được xem là truyền thừa của
dòng thiền này.
(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia).
Sau Trịnh Nguyễn phân tranh là triều đại
Nguyễn Huệ, vua Quang Trung. Quang Trung là một Thần tướng bách chiến
bách thắng, nhiều mưu lược, giỏi quản lý và tổ chức, khôn ngoan ngoại
giao. Riêng lãnh vực tôn giáo, Quang Trung tuy tôn trọng tự do Tín
ngưỡng nhưng không vì thế mà để mê tín dị đoan phát triển.
VUA QUANG TRUNG NGUYỄN HUỆ (1753 - 1792)
Ông là một trong những lãnh đạo chính trị
tài giỏi với nhiều cải cách xây dựng đất nước, quân sự xuất sắc trong
lịch sử Việt Nam với những trận đánh trong nội chiến và chống ngoại xâm
chưa thất bại lần nào.
Quang Trung có một chính sách tôn giáo rất
tự do và rộng rãi: dù là người đề cao Nho giáo nhưng ông vẫn bảo đảm
hoạt động cho các tôn giáo khác như Phật giáo và các tín ngưỡng khác.
Về Công giáo, các giáo sĩ tự do hoạt động, truyền đạo, xây dựng nhà thờ.
Đối với Phật giáo, ông chọn một quan văn
“5 ngày một lần vào cấm cung để giảng giải kinh sách”. Nhưng đồng thời
ông cũng thi hành chính sách bài trừ mê tín dị đoan rất mạnh, chấn chỉnh
lại việc tu hành: nhiều chùa ở các làng có mà người tu hành lạm dụng để
truyền bá mê tín dị đoan bị đập bỏ để xây duy nhất một ngôi chùa ở
huyện cấp trên, đồng thời những người tu hành không đạo đức, những kẻ
lưu manh, lười biếng đều phải hoàn tục.
Đối với việc Nguyễn Huệ mang quân ra Bắc
Hà đánh họ Trịnh chuyên quyền, ông dùng khẩu hiệu "Phù Lê diệt Trịnh" để
tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân Bắc Hà. Khi diệt được họ Trịnh, ông
vẫn tôn thờ vua Lê. Việc làm đó được sử gia Trần Trọng Kim nhận định "Ấy
là đã có sức mạnh mà đã biết làm việc nghĩa vậy".
# Sau là một vài lời nhận xét về công cuộc cai trị của Quang Trung:
"Ông không chỉ là cầm quân mà còn là
nhà cai trị rất giỏi... Đồn binh vững vàng khắp đường sông, cửa biển; kỷ
luật nghiêm minh, đồng thời lại rất nhân từ với nhân dân..."
—Legrand de la Liraye trong tác phẩm Notes historiques sur la nation annamite (Bút ký lịch sử về dân tộc An Nam)
Vua Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn là
ông vua anh dũng, lấy võ lược mà dựng nghiệp, nhưng ngài có độ lượng,
rất am hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài văn học. Khi
ngài ra đất Bắc Hà, những người như Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích đều được
trọng dụng và nhất là đối với một xử sĩ như Nguyễn Thiệp thì thật khác
thường.
(Trần Trọng Kim)
(Wikipedia)
BỐI CẢNH TRONG THỜI ĐÔ HỘ
Bối cảnh lịch sử miền Nam Việt Nam trong thời kỳ Pháp đô hộ
Sau thời gian Gia Long và Tây Sơn tranh
chấp, đến khi Quang Trung mất, tinh thần binh sĩ và nội tình phân tán
nên Nguyễn Ánh đã thừa thắng, một phần nhờ ngoại bang, bắt tay với Tàu
và Pháp, tuy chưa chặt chẽ lắm, nhưng cũng có chỗ cho binh sĩ an lòng.
Vua Gia Long có thiện cảm hơn do khi ông còn gian truân có nhờ ông Bá Đa
Lộc giúp đỡ. Khi chiến tranh kết thúc, các ông Chaigneau, Vannier và
Despiau làm quan tại triều, tuy nhiên, năm 1817, chính phủ Pháp phái tới
Việt Nam chiếc tàu Cybèle để thăm dò bang giao. Thuyền trưởng là
Achille De Kergariou nói rằng vua Louis XVIII sai sang xin thi hành
những điều ước do Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng và
đảo Côn Lôn. Vua Gia Long sai quan ra trả lời rằng những điều ước ấy
nước Pháp trước đã không thi hành thì nay bỏ, không nói đến nữa.
(Wikipedia)
Đến khi Minh Mạng kế thừa thì tinh thần
cải cách tiến bộ hơn, thuê quân Pháp huấn luyện quân đội, giúp cho binh
lực và nội chính vững mạnh, vì thế, theo đánh giá đương thời, quân đội
nhà Nguyễn cực mạnh so với các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Cambuchea.
Ngược lại đến thời Tự Đức thì tổ chức suy sụp có lẽ vì tài chánh hạn
hẹp, vả lại Tự Đức không theo cách tổ chức của phương Tây mà quay lại
Binh Thư yếu lược của Trần Hưng Đạo. Tuy Minh Mạng tiếp thu một số cái
hay của Pháp để cải cách, nhưng: Vua Minh Mạng không có cảm tình với
người Pháp như thái độ chung của người Á Đông lúc đó, coi người Âu Châu
là bọn man di, là quân xâm lược Châu Âu.
Trong thời kỳ Minh Mạng nắm
quyền, tín đồ Công giáo bị đàn áp quyết liệt và các giáo sĩ nước ngoài
đã so sánh ông với hoàng đế Nero của Đế quốc La Mã - một hoàng đế từng
tàn sát hàng loạt giáo dân Công giáo. Với những người Pháp đã từng giúp
vua Gia Long, Minh Mạng tỏ thái độ lạnh nhạt nên khi Chaigneau trở lại
Việt Nam không được trọng dụng nữa. Minh Mạng cho Chaigneau hay rằng
không cần phải ký thương ước giữa hai chính phủ, người Việt Nam vẫn đối
xử tốt đẹp với người Pháp là đủ, ông chỉ thỏa thuận mua bán với người
Pháp nhưng không chấp nhận xây dựng đặt quan hệ ngoại giao chính thức
với nước Pháp, quốc thư của Pháp xin cho ông Chaigneau làm Lãnh sự Pháp ở
Việt Nam không được nhà vua đếm xỉa đến.
Cũng theo đường lối của hai
triều Minh Mạng và Thiệu Trị, vua Tự Đức khước từ mọi việc giao thiệp
với các nước ngoài, dầu việc giao thiệp chỉ nhằm phục vụ thương mại. Năm
1850 có tàu của nước Mỹ vào cửa Hàn có quốc thư xin thông thương nhưng
không được tiếp nhận.(Wikipedia)
Do tính cứng rắn của các đời vua nhà
Nguyễn về sau, cấm đạo, bắt bớ trục xuất người Pháp, không chịu canh tân
đất nước, loạn lạc dân chúng nổi dậy liên miên, vua nghe theo nhóm cận
thần bảo thủ nên đưa đất nước vào chỗ rối ren, bế tắt. Đến khi Tự Đức
bắt đầu cho học tiếng nước ngoài thì cũng đã muộn. Triều đình không có
một biện pháp nào đối phó với phương Tây, ngược lại chỉ cấm đạo và cấm
mua bán quyết liệt hơn trước. Ngoài ra ông cũng không thích cả Công giáo
nhân vụ An Phong Công Hồng Bảo mưu phản, tìm cách liên hệ với các giáo
sĩ để soán ngôi mà nhà vua cho công bố 2 đạo dụ cấm đoán Công giáo các
năm 1848 và 1851, từ 1848-1860, đã có hàng vạn giáo dân bị tàn sát hay
lưu đày. (Wikipedia)
Dưới triều Nguyễn, trong các đời vua Gia
Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, tuy Phật giáo ít bị kỳ thị nhưng
chủ lực chính trị vẫn nằm trong tay Nho gia.
Từ năm 1817 về sau, số đông Nho gia cảm
thấy có một sự liên kết giữa phong trào truyền đạo Cơ Đốc và sự phát
triển của thế lực thực dân, cho nên đã bắt đầu chống đối Cơ Đốc giáo. Sự
chống đối này phát triển mạnh từ khi vua Minh Mạng lên ngôi. Phật giáo
thời bấy giờ một phần vì không có ảnh hưởng trực tiếp đến chính trị, một
phần vì có tinh thần dung hợp không kỳ thị tôn giáo, nên đã không phải
là động lực đưa tới những đạo dụ "cấm đạo" của vua Minh Mạng. Chính sách
đàn áp kỳ thị Cơ Đốc giáo về phía chống lại chính quyền. Lực lượng Cần
Vương mà phần chủ yếu là Nho sĩ cũng tiếp tục xô đẩy một số người Công
giáo vào thế đối lập. (Wikipedia)
Chính những lý do đó mà Pháp lấy cớ xâm
lăng Việt Nam. Chiến tranh Pháp - Việt nổ ra vào thời nhà Nguyễn
1858-1884. Đồng thời các giám mục Pháp cũng bắt tay với quân Pháp để
thôn tính Việt Nam. Một số giáo dân theo Pháp chống lại triều đình, do
vậy, quần chúng người Lương cũng đã ngờ vực cộng đồng Ki Tô giáo. Sau đó
miền Tây Nam bộ cũng vào tay Pháp. Thời kỳ Pháp thuộc được kể từ
1884-1945. Cũng từ nhà Nguyễn bị đô hộ, chữ Nôm, chữ Nho bị thay bởi chữ
La Tinh ngày nay gọi là chữ quốc ngữ. Sau khi bị đô hộ bởi Pháp, đạo
Công giáo được tự do phát triển. Nam Định là cái nôi sơ khai khi đạo
Công giáo được truyền vào Việt Nam, các giáo xứ Bùi Chu, Phát Diệm lập
cứ điểm vừa truyền giáo vừa chống lại triều đình. Một số chùa bị biến
thành nhà thờ như Lá Vằng nay là La Vang, nhà thờ lớn Hà Nội vốn là chùa
tháp Báo Thiên: Theo một số tài liệu lịch sử như sách của Louvet “La
vie de Mgr. Puginier”, tiểu thuyết lịch sử “Bóng nước Hồ Gươm” của Chu
Thiên, các tài liệu trong Văn khố Hội Thừa sai Paris (M.E.P.)… thì khu
đất này xưa kia là khu đất của Báo Thiên Tự (Chùa tháp Báo Thiên) được
xây dựng từ đời Nhà Lý.
Đây là một ngôi quốc tự nổi tiếng của kinh đô
Đại Việt trong suốt các triều đại từ Lý-Trần. Đến thời Lê – Nguyễn, đây
vẫn là nơi diễn ra các nghi lễ Phật giáo cầu cho quốc thái dân an...
(nhà thờ lớn HN-Wikipedia).
Nhà thờ Đức Bà vốn là chùa Khải Tường...
Hình như đa phần tỉnh nào cũng có chùa bị sung công làm nhà thờ nếu nơi
đó nằm ở vị trí thuận lợi. Vì thế, các sư Tăng rút sâu vào xóm thôn để
tồn tại cùng với người dân chân lấm tay bùn, ít có chùa nằm ngay mặt
tiền đường phố chợ vào thời đó.
Sau thời gian dài, tu sĩ Phật giáo không
cập nhật kiến thức, văn minh Tây phương, cứ mãi ôm ấp chữ Nho, chữ Nôm
mà lớp trẻ không thể tiếp thu dễ như chữ quốc ngữ (La Tinh), vì vậy khó
tìm người trẻ kế thừa "trụ Như Lai xứ". Các sư chẳng những có gia thất,
có con tiếp tục học chữ Nho để tụng đọc kinh điển; không được đi học
theo kiến thức thời đại, chỉ biết ma chay đám tiệc và làm ruộng, hầu hết
các sư được gọi là Cổ Sơn Môn hay Lục Hòa Tăng, họ đều có vợ con, ăn
thịt cá, uống rượu, kiêm luôn cúng đình cúng miễu. Người dân xem tu sĩ
đó là một cái nghề để đáp ứng ma chay, xem ngày tháng cưới hỏi, xây
cất... được ưu thế là thân cận gần gũi người dân, nhưng cũng vì thế
người dân thiếu sự kính trọng hơn các linh mục. Phật giáo tồn tại trong
thời Pháp thuộc nhờ gắn kết với tập quán nhân dân, đáp ứng được nhu cầu
tâm linh của giới bình dân. Thêm vào lúc Nho gia chiếm địa vị độc tôn mà
nhà Nguyễn dùng đó để khôi phục và bảo vệ nhà nước tập quyền chuyên chế
theo thuyết vua là Thiên tử, nên Nho gia đã kích dèm xiểm Phật giáo để
vua chúa nghe theo. Thời kỳ hậu Lê đến cuối thế kỷ XIX là giai đoạn suy
thoái của Phật giáo.
Khi nền văn minh Tây Âu thâm nhập vào xã
hội Việt, mọi cơ cấu truyền thống bị đảo lộn; Tình làng nghĩa xóm được
đo lường bởi tài sản và địa vị xã hội; Thị dân hóa cuộc sống. Gia Long
cũng nặng về Tây phương do ân nghĩa, nên vào thời Tự Đức, Phật giáo bị
giới hạn nhiều mặt về xây dựng và phát triển; tách hẳn Phật giáo ra khỏi
ảnh hưởng triều chính xưa kia. Từ nhà Nguyễn, Phật giáo suy vi hẳn,
không nghe danh tánh một cao Tăng chứng đắc hay một danh Tăng nổi bật
nào.
Một số vị chân tu ẩn thân nơi rừng sâu núi
thẳm; Uy tín Phật giáo trong nhân gian cũng nhợt nhạt. Một số tu sĩ ngả
sang thần quyền, bùa phép ảnh hưởng của Đạo gia, mê tín dị đoan xâm
nhập vào thiền môn. Ngược lại cách thờ phượng, hành lễ của Công giáo
mang tính giản dị thanh thoát, nhạc lễ cũng khác hẳn nhạc lễ trống phách
ồn ào của Phật giáo. Tin Lành càng đơn giản hơn và mang vẻ trí thức
hơn. Hai tổ chức tôn giáo nói trên được chính quyền bảo hộ và giành
nhiều đãi ngộ.
Sau đệ nhị thế chiến, trước sự ồ ạt tấn
công văn hóa và tôn giáo từ phương Tây, các cao Tăng Phật giáo ở Trung
Hoa, Srilanka, Thái ý thức được sự tồn vong của đạo Phật nên các ngài
khởi xướng chấn hưng Phật giáo. 1950-1951 đại hội Phật giáo thế giới tổ
chức tại Tích Lan đã chọn giáo kỳ ngũ sắc và thành lập nội quy sinh hoạt
chung, tôn trọng các tông phái của mỗi quốc gia, Việt Nam có HT Tố Liên
dẫn đầu đoàn tham dự, từ đó, PGVN là thành viên thường trực trong hội
Phật giáo Liên hữu.
NGƯỜI PHẬT TỬ ƯU TÚ THẾ KỶ XX: TÂM MINH - LÊ ĐÌNH THÁM (1897 - 1969)
- MỘT ĐỜI ĐẠO PHÁP VÀ DÂN TỘC - CÓ CÔNG TRONG VIỆC ĐÀO TẠO TĂNG TÀI, CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO
- SÁNG LẬP GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM
Như lời tự thuật của Hòa Thượng Thích
Thiện Hoa, chính vì qua 1 lần gặp gỡ Bác Sĩ Lê Đình Thám, mà Hòa Thượng
Thích Thiện Hoa đã phát khởi "hoài bão" để rồi Hòa Thượng đã tạo dựng 12
nấc thang Giáo Lý được gọi là Phật Học Phổ Thông để thiết lập một hệ
thống giáo lý căn bản, vững vàng trong việc đào tạo những Tăng Ni Việt
Nam có khả năng hoàng dương Chánh Pháp và giáo hóa chúng sinh sâu rộng.
Trong sự nghiệp chấn hưng Phật giáo nước nhà, tại miền Trung, vào những
năm của thập kỷ 1930, bác sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám là người đã cống
hiến nhiều công lao xuất sắc, đưa Phật giáo miền Trung phát triển vững
chắc và sâu rộng.
- Mùa Đông năm 1946, bác sĩ về quê ở Quảng Nam tham gia kháng chiến chống Pháp.
- Năm 1947, bác sĩ Thám giữ chức Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Trung bộ tại Liên khu V.
- Mùa hè năm 1949, bác sĩ được mời ra Bắc và được đề bạt giữ chức Chủ tịch Phong trào Vận động Hòa bình Thế giới của Việt Nam.
MỞ CÁC TRƯỜNG PHẬT HỌC
- Năm 1933, mở trường An Nam Phật Học tại chùa Vạn Phước
- Năm 1935, mở trường Sơn Môn Phật Học
Từ năm 1934-1945 là những năm hoàn chỉnh
các tổ chức của Phật giáo và hệ thống đào tạo Tăng tài, các lớp Phật học
cho thanh niên. Kết quả mà ông đã đóng góp được trong những năm tháng
ấy, vẫn mãi mãi được ghi nhớ: Một thế hệ Tăng sĩ tài ba đã nở rộ, làm
nền tảng tuyên truyền phát huy chánh pháp, đoàn kết Tăng Ni và Phật tử,
bảo vệ Phật giáo trước những khó khăn lúc bấy giờ.
Trong những năm ở Bắc, ngoài ngày giờ làm
việc cho Nhà nước, ông đến chùa Quán Sứ để dịch kinh và giảng kinh,
hướng dẫn việc tu học giúp nhà chùa. Kết quả của những năm tháng dày
công quả vì đạo pháp và dân tộc ấy còn được thể hiện qua các kinh sách
uyên thâm như:
1. Kinh Thủ Lăng Nghiêm
2. Luận Nhơn Minh
3. Đại Thừa Khởi Tín Luận
4. Bát Thúc Qui Củ tụng.
5. Phật Học thường thức.
6. Bát Nhã Tâm Kinh.
7. Lịch sử Phật giáo Việt Nam và Phật Tổ Thích Ca.
8. Tâm Minh - Lê Đình Thám tuyển tập (gồm 5 tập).
Trong giai đoạn chấn hưng Phật giáo giữa
thế kỷ XX, Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám quả là bậc tiền bối hữu công thật
sáng chói, ông đã vượt qua ranh giới hình thức để tựu thành đạo nghiệp
cao quí cho hàng hậu tấn ngưỡng vọng dù xuất gia hay tại gia.
(Thư Viện Hoa Sen)
Thập niên 1920, tuy PGVN đang suy thoái,
vẫn có những lương đống âm thầm đào tạo Tăng tài, bởi Phật giáo thịnh
thì dân tộc thịnh, đạo Phật suy thì đất nước suy, chính vì sự liên đới
hữu cơ, một số cao Tăng thạc đức đã đứng ra xiển dương chấn hưng Phật
giáo như:
Miền Nam có : HT Từ Phong đạo tràng Giác
Hải, HT Khánh Hòa, HT Chí Thành, HT Huệ Quang, HT Khánh Anh, HT Tâm
Thông, HT Hoằng Nghĩa, sư Thiện Chiếu...
Miền Trung có: HT Tuệ Pháp, HT Thanh Thái, HT Đắc Ân, HT Tâm Tịnh, HT Phước Huệ...
Miền Bắc có: HT Thanh Hanh, HT Phổ Tuệ...
Chủ xướng chấn hưng Phật giáo lúc bấy giờ
được khởi xướng ở Ấn Độ bởi cư sĩ David Hewavitarane, người Tích Lan,
sau này xuất gia thành đại đức Dharmapala. Công việc đầu tiên của ông là
vận động trùng tu lại những Phật tích quan trọng ở Ấn Độ, và tiếp theo
là lập hội Mahabodhi Society, xuất bản tạp chí Phật học, thành lập trung
tâm Phật học và tu viện Phật giáo. Nhờ có sự khuyến khích của thi sĩ
Edwin Arnold người Anh, tác giả The Light Of Asia, và đại tá Henry Steel
Olcott, người Hoa Kỳ, Dharmapala đã đạt tới những thành công lớn, nhờ
sự có mặt của bác sĩ Ambedkar, hàng triệu người Ấn thuộc giai cấp hạ
tiện (intouchables) tại Ấn Độ đã quy y theo Phật giáo, tại Nagpur ngày
14.10.1956, năm trăm ngàn người đã làm lễ quy y trong một lần. (VNPGSL)
Từ chất xúc tác nầy chư tôn đức Việt Nam
mạnh dạn bắt tay công cuộc chấn hưng Phật giáo mạnh mẽ, trong đó có sự
tiếp tay của các cư sĩ nổi tiếng như bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám, và
hoằng pháp có Thiều Chửu, Đoàn Trung Còn... Mạnh nhất là miền Trung, nơi
đào tạo nhiều danh Tăng cao đức đã chống chọi lại chính sách triệt tiêu
Phật giáo của Ngô triều.
Sự xuất hiện các tôn giáo nội sinh thuần Việt
Trước khi có cuộc canh tân Phật giáo trong
nước và các nước Phật giáo trên thế giới, tại miền Nam Việt Nam, thế kỷ
XIX cũng đã xuất hiện một số nhân sĩ trí thức yêu nước như Phan Bội
Châu, Phan Chu trinh; tuy nhiên cũng có những bậc yêu nước lẫn mộ đạo,
dùng hình thức tâm linh để thực hiện lòng vì dân vì nước như Cao Đài,
Hòa Hảo mà trước đó đã xuất hiện một hiền nhân Thánh đức được quần chúng
tôn xưng: "Phật thầy".
Đoàn Minh Huyên (14 tháng 11 năm 1807 - 10
tháng 9 năm 1856), còn có tên là Đoàn Văn Huyên, đạo hiệu: Giác Linh,
được tín đồ gọi tôn kính là Phật Thầy Tây An. Ngoài vai trò là người
sáng lập giáo phái (Bửu Sơn Kỳ Hương) bản địa đầu tiên ở An Giang, ông
còn là một nhà yêu nước, nhà dinh điền đã có công khai hoang nhiều vùng
đất ở Nam Bộ (Việt Nam).
Thân thế và hành trạng:
Đoàn Minh Huyên là người ở Tòng Sơn, thuộc
Cái Tàu Thượng, tổng An Thạnh Thượng, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc xã Mỹ An
Hưng A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp).
Năm 1849, ở Nam Kỳ, xảy ra vụ mất mùa và
đại dịch (kéo dài đến 1850), đã làm nhân dân lâm vào cảnh cùng cực, khổ
đau và chết chóc. Trong hoàn cảnh ấy, Ông từ Tòng Sơn vào Tràm Dư, rồi
đến vùng Kiến Thạnh (xưa thuộc làng Long Kiến; nay thuộc xã Long Giang,
huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang), cư ngụ ở cốc ông đạo Kiến, trổ tài trị
bệnh cho dân. Từ chỗ chữa trị bệnh có kết quả, ông dìu dắt được nhiều
bệnh nhân và người thân của họ nghe theo những điều dạy khuyên của Ông.
Thấy người tin theo ngày một đông, nên
ngay năm ấy (1849), Ông đã sáng lập ra đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, với tôn chỉ
và phương pháp hành đạo rất đơn giản.
Nghe ông chữa bệnh bằng nước cúng (nước
lã), bông cúng,... đồng thời rao giảng đạo, quan tỉnh An Giang nghi ngờ
ông là gian đạo sĩ, hoạt động chính trị nên bắt giam, nhưng xét không có
bằng chứng phải thả tự do cho ông. Song ông buộc phải quy y theo đạo
phật (phái Lâm Tế) và tu tại chùa Tây An, dưới chân núi Sam (Châu Đốc).
Từ đó, ông được người dân tin tưởng gọi tôn kính là Phật Thầy Tây An.
Mặc dù bị chỉ định cư trú, song ông vẫn
thường đi lại khắp miền sông Hậu, phổ biến giáo lý Tứ Ân, đồng thời vận
động dân nghèo khai hoang, dần hình thành 4 trung tâm dinh điền lớn, đó
là Đồng Tháp Mười (Đồng Tháp), Thới Sơn (Tịnh Biên), Láng Linh và Cái
Dầu (đều thuộc Châu Phú)...
Phật Thầy Tây An viên tịch ngày 10 tháng 9
năm 1856, lúc 49 tuổi. Hiện mộ ông ở phía sau chùa Tây An (Châu Đốc),
không đấp nấm theo lời căn dặn của ông.
Tương truyền, Phật Thầy Tây An có viết mấy quyển kinh, kệ sau đây:
• Chuẩn đề chú
• Thái dương kinh
• Khai kinh kệ
• Thái âm kinh
Ông có nhiều đệ tử giỏi, như Đức Cố Quản
(Trần Văn Thành), Tăng Chủ (Bùi Đình Thân), Đạo Xuyến (Nguyễn Văn
Xuyến), Đạo Lập (Phạm Thái Chung), Đạo Thắng (Nguyễn Văn Thắng) v.v...
• Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương
Theo truyền thuyết của giáo phái này, thì
Bửu Sơn (núi báu) là Thất Sơn, mà linh thiêng nhất là núi Cấm. Kỳ hương
tức là mùi hương lạ. Hội Long Hoa sau thời Mạt pháp sẽ được Phật Di-lặc
thành lập ở đó để đón nhận những ai biết tu hiền.
Trước thực trạng nghèo đói và bệnh tật
triền miên, nghe nói hội Long Hoa giống như cõi Tiên tại thế, mà việc
hành đạo lại rất dễ, nên người tin theo ngày càng đông.
Người đến quy y sẽ được Đoàn Minh Huyên
cấp cho một tấm "lòng phái" (mảnh giấy màu vàng có ghi bốn chữ “Bửu Sơn
kỳ Hương” màu son), được truyền dạy giáo lý "học Phật- tu Nhân", tức là
noi theo giáo lý Đức Phật mà tu sửa con người, tích cực thực hành thuyết
"Tứ ân (ơn)", đó là: Ân tổ tiên cha mẹ, Ân đất nước, Ân Tam bảo và Ân
đồng bào nhân loại. (Kiwipedia)
Về việc hành đạo, tuy lấy đạo Phật làm
gốc, nhưng tín đồ không cần thờ tượng Phật (trên ngôi thờ Tam bảo chỉ
cần thờ tấm trần điều màu đỏ), không cần phải ly gia cắt ái, không cần
ăn chay, cạo râu tóc, gõ mõ tụng kinh,... và không cần phải dâng cúng
những lễ vật tốn kém (bông hoa, nước lã là đủ).
Nhiều nhà nghiên cứu, trong đó có Sơn Nam
cho rằng đây là lối tu theo thuyết “vô vi”, tức là không chú trọng đến
hình thức, không dụng tâm bày đặt ra cái này cái khác.
Sau này, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa và đạo Hòa Hảo chịu ảnh hưởng sâu sắc các yếu lý trên.
Tương truyền, theo ông cư sĩ cư sĩ
Spô-Liêu, viết trong cuốn "Thân thế Phật thầy Tây An" dựa vào truyện
thơ Kim cổ kỳ quan của ông Nguyễn Văn Thới (1866-1926). Theo đó, Phật
thầy có tên thật là Nguyễn Quang Mục, con của vua Quang Trung và Ngọc
Hân công chúa (con vua Lê Hiển Tông), Phật thầy lấy họ Đoàn để tránh sự
truy sát của Nguyễn Ánh. Nhưng Ngọc Hân có hai người con với vua Quang
Trung là: hoàng tử Nguyễn Quang Đức và công chúa là Nguyễn Thị Ngọc
Bảo, đã bị triều đình nhà Nguyễn sát hại. Như thế không có ai tên Nguyễn
Quang Mục.
Và cũng tương truyền, sở dĩ Phật Thầy lấy tấm vải Trần điều
làm biểu tượng tôn thờ vì cũng là cờ đào khởi nghĩa của Nguyễn Huệ đại
phá quân Thanh năm 1789 (kỷ Dậu). Ca dao miền Tây Nam bộ có câu: "chiều
chiều lại nhớ chiều chiều, nhớ người áo trắng khăn điều vắt vai"... cho
là của bà Ngọc Hân Công chúa nhớ chồng, bà luôn mặc áo trắng vắt khăn
màu đỏ trên vai mỗi khi chiều về hướng đến chân trời xa xăm;và cũng từ
đó, người ta tin rằng mộ của Ngọc Hân mai Táng tại Cái Nai, xã Hội An,
huyện Chợ Mới, Tỉnh An Giang, miền Tây Nam bộ, nhưng theo sử liệu qua
Wikipedia thì: Theo "Biệt lục" của tộc phả Nguyễn Đình, năm 1804, bà
Nguyễn Thị Huyền vì thương con gái và hai cháu ngoại đều chết yểu nơi
xa, nên đã thuê người vào Phú Xuân lấy hài cốt ba mẹ con Ngọc Hân đưa về
bản dinh (tức dinh Thiết lâm của bà). Ngày 16 tháng 7 năm 1804, bà cho
an táng hài cốt bà Ngọc Hân, phụ chôn hoàng tử ở bên trái và công chúa ở
bên phải. Nơi đó nay là bãi Cây Đại hay bãi Đầu Voi ở đầu làng Nành, xã
Phù Ninh (nay là xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội).
GS. Chu Quang Trứ dẫn theo Đại Nam thực lục cũng nói về việc này:
"Khoảng năm đầu Gia Long, ngụy đô đốc tên
là Hài ngầm đem hài cốt mẹ con Ngọc Hân từ Phú Xuân về táng trộm ở địa
phận xã Phù Ninh. Thị Huyền ngầm xây mộ, dựng đền, khắc bia giả, đổi lại
họ tên để làm mất dấu tích".
Gần 50 năm sau, dưới thời Thiệu Trị, miếu
bị đổ nát. Một ông tú người làng Nành nhớ công lao của Chiêu nghi họ
Nguyễn đối với dân làng đã quyên tiền tu sửa ngôi miếu. Không ngờ, có
viên phó tổng cùng làng có thù riêng với ông tú, đã lên quan tố giác về
việc thờ "ngụy Huệ". Triều đình Huế liền hạ lệnh triệt phá ngôi miếu,
quật ba ngôi mộ, vứt hài cốt xuống sông. Ông tú kia bị trọng tội, Tổng
đốc Bắc Ninh Nguyễn Đăng Giai cũng bị giáng chức.
Thế thì khu đền mộ Phật Mẫu (mẹ Phật Thầy
Tây An) hiện mai táng ở Cái Nai (xã Hội An, huyện Chợ Mới, Tỉnh An
Giang) thực hư thế nào???.
Cho dù Phật Thầy Tây An có là con của vua
Quang Trung hay không, cũng chẳng quan trọng bằng tấm lòng vì dân vì
nước trước cảnh nước mất nhà tan, điêu linh thống khổ của dân tộc, Ngài
phương tiện trị bệnh thời khí cho dân để khuyến tu "tứ trọng ân" mà ân
đất nước đứng hàng thứ nhì, và chỉ học Phật tu nhân làm tròn nhiệm vụ
của con dân đối với quốc gia xã tắc. Ngài là nhà yêu nước mộ đạo. Chính
vì tinh thần yêu nước thương dân của Ngài, các đệ tử đã tiếp nối truyền
thống yêu nước chống giặc ngoại xâm đô hộ dân tộc lúc bấy giờ.
Ngài có
Thập nhị hiền thủ tiếp nối tinh thần phục quốc hộ đạo và 5 thế hệ kế
thừa hoằng truyền Phật pháp rất xuất sắc. Đức Phật Thầy chủ trương nông
điền để tự cung tự cấp cho việc tu tập và hộ quốc, đồng thời giữ vững
biên ải miền Tây Nam bộ. Mặc dù đức Phật Thầy không trực tiếp tham chính
cho những hoạt động chống Pháp, nhưng tư tưởng yêu nước chống ngoại xâm
của Ngài truyền đạt qua thập nhị hiền thủ tài giỏi cũng như ảnh hưởng
đến năm thế hệ chuyển kiếp về sau vẫn không đi sai con đường ái quốc, hộ
quốc, hưng Đạo. Những thế hệ kế thừa lòng ái quốc và chấn hưng đạo đức
phật giáo của đức Phật Thầy Tây An qua hình thức dân gian:
1/ ÐỨC PHẬT TRÙM (1868-1875)
Lịch sử của Ngài không rõ ràng, Ngài gốc
là một người Miên, sống tại vùng Tri-Tôn (cũng gọi là Xà Tón) tỉnh Châu
Ðốc. Chết vì bịnh thời khí, nhưng ông bỗng sống lại rồi từ đó không nói
tiếng Miên nữa mà chỉ nói tiếng Việt. Cũng từ đó ông ra tay cứu bịnh, và
truyền đạo khuyến tu, theo như giáo lý của Ðức Phật Thầy Tây An. Sự
việc này được xác nhận: Ðức Phật Trùm cũng phát lòng phái Bửu Sơn Kỳ
Hương, cho nên dân chúng tin rằng ngài chính là Phật Thầy Tây An chuyển
kiếp để tiếp tục độ dân.
Pháp nghi Ngài mượn Đạo để quy tụ nhân dân
chống Pháp nên bắt giam một thời gian. Nên biết thời kỳ này là lúc quân
Pháp đã chiếm Nam kỳ lục tỉnh, các phong trào Cần Vương kháng Pháp do
những anh hùng ái quốc là Nguyễn Trung Trực, Trương Công Ðịnh, Võ Duy
Dương, Nguyễn Hữu Huân, Trần Văn Thành phất cờ khởi nghĩa ở miền Ðông và
miền Tây. Vì trong số lãnh tụ Cần Vương có hai vị là Nguyễn Trung Trực,
Trần Văn Thành có liên hệ đến Bửu Sơn Kỳ Hương, cho nên Pháp truy nã
các tín đồ của tôn giáo này, và thi hành chánh sách khủng bố nghiệt ngã
khi gặp tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương.
(PHẬT GIÁO HÒA HẢO TRONG DÒNG LỊCH SỬ DÂN TỘC).
2/ ĐỨC BỔN SƯ (1870-1890)
Thời kỳ này gọi là thời kỳ củng cố, là vì
trong những năm đầu quân Pháp chiếm đóng miền Nam, họ đã đánh phá tan
tành các cơ sở kháng chiến và trại ruộng, trung tâm hành đạo của Bửu Sơn
Kỳ Hương, làm cho tín đồ xiêu tán đi khắp nơi. Ðức Bổn Sư làm công việc
quy tụ tín đồ trở lại, mà điển hình nhứt là việc lập làng An Ðịnh, gần
dãy Thất Sơn, đồng thời củng cố hàng ngũ kháng chiến chống Pháp.
Tên thật là Ngô Lợi (có chỗ còn ghi thêm
một tên nữa là Ngô Viên), cũng có tên khác là Hữu, con thứ năm trong gia
đình, nên được kêu là Năm Hữu. Sau lại có thêm danh hiệu Năm Thiếp, bởi
hay đi thiếp (nằm như chết một thời gian để linh hồn tiêu diêu ở một
cơi khác). Về sinh quán, có tài liệu nói tại một làng ở biên giới Việt
Miên, có tài liệu nói tại làng Trà Tân (Mỹ Tho).
Theo tài liệu Bửu Sơn Kỳ Hương, thì Ðức
Bổn Sư cũng tự nhiên ngộ đạo, không học mà thông, trị bịnh bằng mầu
nhiệm, chỉ dùng nước lạnh, giấy vàng như Phật Thầy Tây An, để trấn áp
bịnh dịch tả, mà không cần dược liệu. (Ghi chú: dịch tả thường rất hay
xảy ra trong thời kỳ này, có lẽ vì điều kiện vệ sinh quá yếu kém).
Về công cuộc kháng Pháp, cũng theo tài
liệu Bửu Sơn Kỳ Hương, Ðức Bổn Sư có đến vùng Láng Linh, tức chiến khu
Bảy Thưa của lãnh tụ Cố Quản Trần Văn Thành, và hay giả dạng làm đàn bà
để che mặt mật thám Pháp, mà dễ dàng đi đó đi đây. Ðức Bổn Sư tổ chức
lập làng An Ðịnh quy tụ tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương tại đây để canh tác nông
nghiệp, đồng thời kháng chiến. (Khi Pháp tàn phá làng An Ðịnh vào năm
1990, tại đây có 1990 người sống tại làng).
Tại làng An Ðịnh, Ðức Bổn Sư có lập chùa
gọi là Chùa Lớn, chia làm hai ngôi nhỏ, phía trước đặt tên là An Ðịnh
Miếu, thờ các vị Công thần của đất nước, phía sau đặt là chùa Phi Lai
thờ Phật, với tấm trần điều theo nghi thức Bửu Sơn Kỳ Hương.
Tài liệu Bửu Sơn Kỳ Hương nói danh hiệu
Ðức Bổn Sư chánh thức xuất hiện năm 1870, nhưng theo kinh Hiếu nghĩa,
thì đến ngày 28 tháng 4 năm Kỷ Mão (1879), Ðức Bổn Sư mới thọ ký, nghĩa
là mới chánh thức trở thành vị giáo chủ kế truyền sau Ðức Phật Trùm với
danh nghĩa "Tứ Ân Hiếu Nghĩa".
Nguồn tài liệu về nhân vật Ngô Lợi tức Ðức
Bổn Sư được kiểm chứng, và khá dồi dào, là những bản báo cáo của Pháp
về những hành vi của nhân vật này. Qua các tài liệu của Pháp, ta thấy
Ðức Bổn Sư Ngô Lợi đã thể hiện tích cực tinh thần giáo lý Bửu Sơn Kỳ
Hương, cụ thể và điển hình là việc lập làng An Ðịnh ở chân dãy Thất Sơn,
quy tụ nông dân làm ruộng rẫy, tu hành và kháng Pháp.
Tại làng này, có
đền thờ các vị anh hùng dân tộc bên cạnh chùa thờ Phật, và toàn dân làng
An Ðịnh là kháng chiến quân, làng này như một chiến khu, giống như
chiến khu Bảy Thưa Láng Linh của cố Quản Trần Văn Thành, vị đại đệ tử số
một của Phật Thầy. (PHẬT GIÁO HÒA HẢO TRONG DÒNG LỊCH SỬ DÂN TỘC)
Nhưng khách quan mà xét, về mặt đạo, Ngô
Lợi động viên được tín đồ cùng nhân dân phát huy tinh thần yêu nước. Về
mặt đời, ông cùng với Khả và Ong khởi nghĩa ở Cai Lậy năm 1878, qui tụ
được những người từng tham gia kháng Pháp, từ những phong trào như của
Nguyễn Trung Trực, Võ Duy dương, Nguyễn Hữu Huân thiết lập được mối quan
hệ với phong trào kháng Pháp của ông hoàng Si-Vatha ở các tỉnh phía Nam
nước Campuchia và những người dân tộc Khmer vùng Bảy Núi (Thất Sơn).
(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
3/ SƯ VÃI BÁN KHOAI (1901-1902)
Danh hiệu Sư Vãi Bán Khoai phát xuất từ
dân chúng mà ra, bởi vì trong lúc đi truyền đạo, ông Ðạo này (dân chúng
cũng gọi là ông Sư) thường giả làm người bán khoai, và thường đem theo
khăn áo bằng vải mà tặng cho người nghèo khó rách rưới. Cũng có lập luận
rằng tác người ông nhỏ nhắn như phụ nữ, lại mang cái yếm trước ngực,
trông giống như một cô vãi. Tuy nhiên lập luận này không vững như lập
luận trên.
Tục danh là Mỹ, họ chi không rõ, lai lịch
và quê quán cũng không ai biết. Sau khi Ðức Bổn Sư Ngô Lợi tịch diệt độ
mười một năm, ông Sư Vãi Bán Khoai ra đời, xuất hiện vào năm 1901-1902,
cũng là lúc Pháp đang theo dõi bắt bớ tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương.
Trong những năm sau khi Ðức Bổn Sư viên
tịch, Bửu Sơn Kỳ Hương phải thu hẹp hoạt động để tránh né sự khủng bố
của người Pháp. Ðể tránh bị theo dõi. Ðức Bổn Sư cho sửa đổi cách thờ
phượng, cho giống như nghi thức nhà Thiền. Với sự xuất hiện của ông Sư
Vãi Bán Khoai, Bửu Sơn Kỳ Hương chuyển sang thời kỳ phổ biến nặng về
truyền đạo, nhẹ về kháng Pháp. Ðây là phương lược mới của Bửu Sơn Kỳ
Hương để thoát sự kềm tỏa ngăn chận của thực dân Pháp.
Sư Vãi Bán Khoai mở một kỷ nguyên mới về
hình thức truyền giáo. Ông giả dạng, nay là người bán khoai, mai là
người bán củi, rồi cũng xưng hiệu điên khùng, đi khắp chợ này làng nọ,
nhiều nhứt trong vùng kinh Vĩnh Tế, biên giới Cao Miên. Chủ đề của ông
truyền bá là khuyên dân tu hành, làm lành và niệm Phật.
Không bao lâu, dân chúng vùng Châu Ðốc đều
nghe nói đến ông, truyền bá kinh giảng của ông, và hiểu được rằng ông
là một vị kế truyền của Tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Ông Sư Vãi Bán Khoai
không phát lòng phái, cũng không lập chùa chiền, chỉ rao truyền cuốn
Sấm Giảng Người Ðời gồm mười một thiên. Dân chúng nghe qua cuốn Sấm
Giảng này, đều hiểu rằng ông là một bực tiên giác của Bửu Sơn Kỳ Hương
ra đời phổ hóa giáo lý của Ðức Phật Thầy Tây An. Nên biết rằng hầu hết
các gia đình người Việt ở vùng này trước kia đều có ông cha đã từng theo
đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và vẫn giữ truyền thống này. Cho nên khi thấy Sư
Vãi Bán Khoai truyền bá tư tưởng Sấm Giảng Người Ðời, họ cảm nhận ngay
được truyền thống Bửu Sơn Kỳ Hương trong đó.
Dân chúng đồn rằng ông có nhiều pháp thuật
và võ nghệ. Ông dùng đầu ngón tay cái như cái mõ, mỗi khi niệm kinh,
lấy cây gậy gõ trên đầu ngón tay cái mà phát ra tiếng kêu lóc cóc y như
tiếng mõ của sư sãi trong chùa. Lúc ở Vĩnh Thông, ông thường đi nhổ bàng
để dệt đệm. Một hôm, ông đang cầm mác đi phát bàng, bỗng nghe tiếng cọp
gầm và tiếng người la cầu cứu gần đó. Ông cầm mác chạy tới, thấy người
cùng xóm tên Mạnh đang vật lộn với một con cọp trong một thế võ lạ kỳ.
Ông Mạnh nằm dưới bị cọp vồ lên, nhưng hai tay ông nắm chặt chân trước
cọp và lấy đầu đội bụng cọp lên. Cọp rất mạnh và nặng, ông không quật nó
được, cứ giằng co trong cái thế nguy hiểm đó. Ông Sư Vãi Bán Khoai cầm
mác vươn mình nhảy tới chém một nhát thật mạnh trên lưng cọp, khiến thân
mình cọp bị xẻ ra chết tại chỗ.
Nội dung Sấm Giảng Người Ðời của ông cũng hàm chứa một cách kín đáo tư tưởng Ðạo và Yêu nước, thí dụ như những câu sau đây:
Niệm Phật thì phải chí tình, Ơn cha nghĩa mẹ giữ mình cân phân. Niệm Phật phải giữ Tứ Ân, Ơn nhà nợ nước xử phân trọn ghi.
Hay là:
Thảo cha ngay chúa xưa nay, Dầu mà có thác miễu son tạc thờ. Xem trong các truyện các thơ, Nịnh thần có thác, miễu thờ ở đâu!
Tác phẩm này của ông được dân chúng Hậu
Giang truyền tụng và lưu giữ như báu vật. Trong đó ngoài phần giảng đạo,
còn có nhiều điều tiên tri về tương lai, có chỗ nói rõ cả ngày tháng sự
việc quan trọng sẽ xảy ra. Thí dụ những câu sau đây trong cuốn thứ tám
Sấm Giảng Người Ðời:
Mây Trời mở hội đăng khoa, Mười ba
tháng chín Trời ra một điềm. Trời chiều mây gió lặng êm, Giờ Thân Trời
mới nổi lên rõ ràng...
Sau này đúng vào ngày 13 tháng 9 âm lịch
(1985), có xảy ra vụ nổ lớn trong dãy Thất Sơn, lần này tại núi Cấm nước
trào như suối thác từ ngọn núi tuôn ra, làm cho dân chúng đồn đãi và
gây đợt sóng chấn động khắp miền Nam, hàng vạn người kéo về Thất Sơn để
xem tận mắt một cảnh tượng thể hiện lời tiên tri trong sấm truyền của Sư
Vãi Bán Khoai, mà họ cho là một triệu chứng báo hiệu những thay đổi sắp
xảy ra: một cuộc đổi đời.
Ðặc biệt trong Sấm Giảng Người Ðời, ông Sư
Vãi Bán Khoai nói rất nhiều về thuyết Tam Ngươn, một lập thuyết về vũ
trụ quan và nhân sinh quan Bửu Sơn Kỳ Hương. Lập thuyết này cho rằng vũ
trụ xoay vần theo lý tam ngươn, từ Thượng Ngươn chuyển qua Trung Ngươn
và Hạ Ngươn. Rồi khi Hạ Ngươn mãn, lại bắt đầu chu kỳ mới với đời Thượng
Ngươn. Cũng theo thuyết đó, thì hiện nay nhân loại đang sống thời kỳ
cuối cùng của Hạ Ngươn, và một cuộc đổi đời sắp xảy ra.(PHẬT GIÁO HÒA
HẢO TRONG DÒNG LỊCH SỬ DÂN TỘC)
4/ ÔNG CỬ NGUYỄN ÐA (CUỐI THẾ KỶ 19)
Ông là một nhân vật đặc biệt, không phát xuất từ địa phương Hậu Giang, mà từ miền Trung đến đây. Lại là một nhà khoa bảng.
Tên thật là Nguyễn Ða, đã thi đỗ cử nhân
khoa võ, nên được kêu là ông Cử Ða. Lúc mới đến Thất Sơn, nhiều người
nghe tiếng nói của ông phát giọng miền Trung, cho nên cũng gọi ông là
ông Thầy Huế. Quê ông là làng Phù Cát (có chỗ chép là Phù Lạc), huyện
Bình Khê, tỉnh Qui Nhơn, nơi đã sản xuất ra vị anh hùng Nguyễn Huệ Quang
Trung.
Ông vào vùng Thất Sơn giữa thời kỳ lãnh tụ
Nguyễn Trung Trực vừa thất bại ở miền Ðông, lui quân về Kiên Giang ẩn
náu, vào khoảng năm 1867-68. Lúc ấy người ta phỏng định ông vào khoảng
40 tuổi. Theo Việt sử và các sách nói về binh chế Việt Nam, thì thời
gian trước ngày ông Cử Ða vào Nam, có các khoa thi võ vào những năm
Thiệu Trị thứ 5 (1845) và Tự Ðức thứ 18 (1865). Có lẽ ông đã thi đậu võ
cử vào thời Thiệu Trị. Ông bỏ miền Trung vào Nam để tìm cách phát triển
phong trào kháng Pháp, vì lúc đó trong Nam có nhiều tổ chức kháng chiến.
Có lẽ ông có kiến thức về sự liên kết kháng chiến toàn quốc để chống
Pháp cho hữu hiệu, cho nên mới vào Nam. Nhưng lúc đó lại là lúc các
phong trào kháng chiến đang gặp khó khăn, cho nên ông lưu lạc giang hồ
đến Thất Sơn. Có những vần thơ của ông viết lúc đó, còn lưu truyền lại:
Lòng ta luống những ưu phiền, Một mình
trực tiết không miền gió trăng. Trong mình cũng biết võ văn, Trải chơi
thế cuộc tiếng văn giang hà. Và những câu:
Anh hùng nghĩa khí trung cang, Trai ở thủy trạch Lãnh trang ít người. Tang bồng hồ thỉ đời đời...
Tình thế miền Nam lúc đó vô cùng nguy ngập
rối ren. Sau khi cụ Phan Thanh Giản bị ép phải trao ba tỉnh miền Tây
cho Pháp rồi tử tiết, Nguyễn Hữu Huân bị bắt đi đày, Trương Công Ðịnh bị
Pháp giết, Nguyễn Trung Trực ẩn náu ở miền Tây. Trước tình thế ấy, ông
Cử Ða tan nát cõi lòng, tìm về Thất Sơn ẩn dật hay là tìm về các trại
ruộng của Bửu Sơn Kỳ Hương, chờ ngày có cơ hội giúp nước. Vì vậy, dấu
chân ông đi khắp các ngọn núi trong vùng Thất Sơn. Rốt cuộc, ông chọn
con đường tu hành như một người trong Tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương.
Nhưng quân Pháp cũng phát giác được tung
tích của ông, và kéo lính từ đồn Cây Mít đến bao vây. Ông sợ lụy đến dân
chúng trong vùng, nên từ giã đệ tử mà rời khỏi Thất Sơn, qua Hà Tiên,
rồi lên núi Tà Lơn (Cao Miên). Tại đây ông trở thành một người thoát
tục, và viết rằng:
Hắc y đổi lại cà sa, Cải tên đặt lại hiệu là Ngọc Thanh.
Ông Cử Ða có nhiều đệ tử tại núi Tà Lơn,
lâu lâu ông cũng trở về Thất Sơn thăm lại các đệ tử cũ. Sau đó, ông biệt
tích, không ai biết ông về đâu nữa. Hiện tại vùng Kampot, dưới chân núi
Tà Lơn có miếu thờ Ông Cử Ða. (Ghi chú: Tà Lơn: dãy núi có tên là
Chaine des Eléphants bắt đầu từ Kampot lên dãy Cardamomes Tây Bắc Cao
Miên). (PHẬT GIÁO HÒA HẢO TRONG DÒNG LỊCH SỬ DÂN TỘC)
5/ ĐỨC HUỲNH PHÚ SỔ (1920-1947)
Trong 5 thế hệ truyền thừa tinh thần "học
Phật tu nhân" và "Tứ ân hiếu nghĩa", Đức Huỳnh giáo chủ là người xuất
sắc nhất, nổi bậc nhất, trẻ nhất và thành đạt lâu dài nhất, có tầm ảnh
hưởng sâu rộng trong quần chúng miền Tây Nam bộ cho đến ngày nay. Ngài
nói:
"Tôi tin chắc rằng giáo lý giải thoát
chúng sanh (của đức Phật Thích Ca) chẳng những được truyền bá ở Thiền
Lâm, mà còn phải được thực hiện trên trường chánh trị". Ngài giải thích
thêm:"Theo như sự nhận xét của tôi về giáo lý nhà Phật do đức Thích Ca
Mâu Ni Phật đã khai sáng, lấy chủ nghĩa từ bi bác đại đồng đối với tất
cả chúng sanh làm nồng cốt, thì tôi nhận Ngài là một nhà cách mạng triệt
để về tư tưởng, vì những câu "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh"
và "Phật cùng đồng nhất thể bình đẳng với chúng sanh". Đã có những sự
bình đẳng về thể tánh như thế mà chúng sanh còn không bằng được Phật là
do nơi trình độ giác ngộ của họ không đồng đều, chớ không phải họ không
thể tiến hóa ngang hàng với Chư Phật được. Nếu trong cõi nhân gian này
còn có chúng sanh tiền tiến áp bức những chúng sanh lạc hậu thì là một
việc trái hẳn với giáo lý chơn chánh ấy. Giáo lý do đức Thích Ca Mâu Ni
Phật không áp dụng được một cách thiết thực trong đời của Ngài, là do
hoàn cảnh xã hội của Ấn độ xưa không thuận tiện.
Ngày nay, trình độ tiến
hóa của nhơn loại đã tới một mức khả quan, đồng thời với sự tiến bộ về
khoa học, thì là có thể thực hành giáo lý ấy để thực hiện một xã hội
công bằng và nhơn đạo. Thế nên với tâm hồn bác ái, từ bi mà tôi đã hấp
thụ, tôi sẽ điều hòa với phương pháp tổ chức xã hội mới, để phụng sự một
cách thiết thực đồng bào và nhơn loại" (Báo Nam Kỳ, ngày 29.11.1946,
Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ, t 481). Một câu nói ngắn gọn thể hiện được
đức Bi-Trí-Dũng của Phật giáo.
Đây là một nhận thức tích cực và thông
thoáng của Huỳnh giáo chủ đối với tư tưởng bình đẳng của Phật giáo. Nếu
lý thuyết bình đẳng được truyền giảng trong kinh điển thì thực tế trong
cuộc sống, đức Huỳnh giáo chủ đã tích cực thể hiện và thực hiện qua công
cuộc đấu tranh chống ngoại xâm dưới các tổ chức chính trị, đảng phái
lúc bấy giờ.
Cuộc đời thanh thiếu niên của Huỳnh Phú Sổ.
Người sinh ngày 25 tháng 11 năm Kỷ Mùi,
tức ngày 15/1 năm 1920, tại làng Hòa Hảo, gần Vàm Nao, quận Tân Châu,
tỉnh Châu đốc, một tỉnh miền Tây nằm sát bên nước Cao Miên và trên sông
Cửu Long (Tiền Giang), trong một gia đình nông dân, con của ông Hương Cả
(người đứng đầu trong làng) Huỳnh Công Bộ và bà Lê Thị Nhậm. Lúc nhỏ
Người thường bịnh hoạn, đau yếu, xanh xao, chỉ đi học trường làng, và đã
đậu bằng tiểu học tại Tân Châu, nhưng đến năm 15 tuổi phải nghỉ học vì
lý do sức khỏe. Ngài được điều trị bởi nhiều thầy thuốc và bằng nhiều
cách nhưng bịnh tình càng ngày càng trầm trọng và theo đuổi suốt quãng
đời thiếu niên của Người. Mãi cho đến khi 18, 19 tuổi, bỗng nhiên Người
hết bịnh và trở thành một thanh niên mạnh khỏe, tuấn tú, da mặt hồng
hào, tươi sáng, tướng bộ chững chạc, trang nghiêm.
Dù mới chỉ học xong tiểu học và chưa từng
nghiên cứu Phật Học, Người bỗng nhiên có một kiến thức Phật Học uyên
bác, và hơn thế nữa, một khả năng "xuất khẩu thành thơ" biến những kiến
thức Phật Học thành những bài thơ giảng đạo đi sâu vào lòng quần chúng
bình dân, ít học. Ngoài ra Người làm thơ bằng chữ Nho một cách tinh
thông, xuất sắc dù không học chữ Nho. Không những thế, Người còn bỗng
nhiên có tài chữa bịnh, kể cả những bịnh nan y dù chưa từng học về y
khoa. Ngày 18 tháng năm năm Kỷ Mão, tức ngày 4/7 năm 1939, Huỳnh Phú Sổ
tuyên bố khai lập Phật Giáo Hòa Hảo, khi ấy Ngài chỉ mới 19 tuổi (Bồ Tát
Huỳnh Phú Sổ và Phật giáo thời đại).
Hoằng pháp
Cũng như đức Phật Thầy Tây An và các vị
tiền hiền, Đức Thầy Huỳnh giáo chủ dùng phương tiện trị bệnh và chỉ trị
bệnh như một phương tiện thực hiện trong vài tháng để đưa quần chúng
vào đạo, vì thế mà trong thời gian ngắn, hàng triệu người biến thành tín
đồ của đạo Phật giáo Hòa Hảo. Nét đặc biệt trong việc truyền đạo là
Ngài không dùng từ chuyên môn cao siêu của nhà Phật, Ngài dùng những từ
mà nhân gian thường dùng, dễ hiểu. Vả lại, những kinh luật kệ cú chữ
Hán, Ngài dịch nghĩa bằng văn vần chữ nôm rất giản dị đầy súc tích, ví
dụ:
Thùy miên thỉ ngộ
Đương nguyện chúng sanh
Nhất thiết tri giác
Châu cố thập phương.
Như tôi tỉnh giấc lúc bình minh
Chí nguyện cầu cho cả chúng sanh
Tâm trí khai thông cùng tỉnh táo
10 phương đều rõ máy anh linh.
Đại tiểu tiện thời
Đương nguyện chúng sanh
Khí tham sân si
Quyên trừ tội pháp.
Cũng như tôi tiểu tiện ra
Nguyện cầu sanh chúng tống ra khỏi mình
Tham lam, gây gổ, si tình
Khỏi điều tội lỗi nhẹ mình cao bay.
Sự ngật tựu thủy
Đương nguyện chúng sanh
Xuất thế pháp trung
Tốc tật nhi vang.
Việc xong rồi đến tôi dùng nước
Cũng như tôi lấy nước nầy ra
Nguyện chúng sanh xuất khỏi ta bà
Nhờ đạo pháp lướt qua nhanh chóng.
Tẩy dịch hình uế
Đương nguyện chúng sanh
Thanh tịnh điều nhu
Tất kiến vô tất.
Như tôi rửa sạch khỏi dơ mình
Chí nguyện cầu cho khỏi chúng sanh
Đắc được thân tâm thanh tịnh lạc
Điều hòa chẳng nhiễm nghiệp mê linh.
Dĩ thủy quán tưởng
Đương nguyện chúng sanh
Đắc thanh tịnh thủ
Thọ trì Phật pháp .
Lấy nước tôi rửa sạch tay
Nguyện cầu sanh chúng được tay thơm lành
Ngỏ hầu nắm pháp vô sanh
Giữ gìn lời Phật ban hành từ xưa.
Năng lễ, sở lễ, tánh không tịch
Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
Ngã thử đạo tràng như Đế châu
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền
Đầu diện tiếp túc quy mạng
Sự lạy Phật vốn không, yên tĩnh
Đạo cảm giao khó tính khôn bàn,
Nay tôi ở trong đạo tràng
Cũng như kết chặt vào đoàn ngọc châu
10 phương Phật hiện bầu hình ảnh
Có bóng tôi cùng sánh các Ngài
Từ chơn cho chí mặt mày.
Cúi đầu làm lễ nguyện rày quy y.
Hoặc là:
Phật quán nhất bát thủy
Bát vạn tứ thiên trùng
Nhược bất trì thử chú
Như thực chúng sanh nhục.
Phật thấy chén nước có trùng
Bốn ngàn tám vạn muốn dùng cho tinh
Nếu không trì chú niệm kinh
Khác nào ăn thịt chúng sanh hằng hà.
Qua 45 bài chú trong Tỳ Ni Nhật dụng của
nhà Phật, được Ngài dịch 25 bài rất thoát và dễ hiểu, chứng tỏ, Ngài
muốn Việt hóa kinh Phật, nhưng thời gian chưa đủ để Ngài tiếp tục Hoằng
pháp lợi sinh và Việt hóa kinh tạng bằng ngôn ngữ giản dị.
Về nghi lễ thờ phượng cũng rất đơn giản;
không chú trọng cốt tượng, không âm thanh sắc tướng nhiều, chỉ thờ tấm
"trần điều", vừa biểu tượng màu sắc tổng hợp, vừa là màu đất sét , quần
áo nông dân xa xưa, cũng là màu hoại sắc mà nhà Phật đề cập. Chỉ cúng
bông hoa và nước lã.
Giáo lý
PGHH không thuần túy là một tông phái Phật
Giáo, dù nền tảng là Phật Giáo nhưng có kết hợp tinh hoa Khổng Lão, tạo
thành pháp môn học Phật tu Nhân. Và nếu là một tông phái thì là tông
phái canh tân rất sát thực tế và giáo lý tổng hợp Tam giáo. Do đó, Tịnh
Độ Tông cũng không là pháp môn căn bản của PGHH, mặc dù cõi TỊNH ĐỘ là
CỨU CÁNH tu hành của tín đồ PGHH. Tiếp nối Phật giáo Tứ Ân, đạo Hòa Hảo
chủ trương cải cách đạo Phật theo đúng với đời sống thực tế của nông
dân, không thiết lập giai cấp Tăng lữ, không tổ chức giáo quyền, không
tích lũy giáo sản, không chú trọng đến hình thức, không làm chùa nguy
nga, không tạc tượng, đúc chuông, không đốt vàng mã, khuyến khích các
nghi lễ giản dị trong việc thờ phụng, cưới xin, tang lễ.
Khuyến nông
Ngài có tài hùng biện, một ngày có thể
diễn thuyết khuyến nông nhiều nơi, không cần văn bản, đối đáp trôi chảy,
đã thuyết phục nhiều giới trí thức đương thời mà trong tập "Thất sơn
mầu nhiệm" ông Nguyễn văn Hầu viết:
"Với một giọng nói thanh tao, êm dịu, khi
bỗng lúc trầm, lưu loát mà rõ ràng, khi cao siêu, khi giản dị, Ngài
giảng giải cho quần chúng nghe giáo lý nhà Phật và phương pháp tu hành.
Ngài thuyết pháp không ngưng, không vấp... Một nhà báo ở Sài Thành (ông
Hiền Sĩ) nói về đức Huỳnh Giáo Chủ trong hơn 30 bài báo, có phê bình tài
hùng biện và khoa ngôn ngữ của Ngài bằng câu "thao thao bất tuyệt" và
cho rằng Ngài "chiếm giải quán quân về phương diện diễn thuyết". Nhà
lãnh tụ nhóm "Tranh đấu" là Tạ Thu Thâu chưa chắc có thể so sánh với đức
Thầy về môn diễn thuyết và nói trước công chúng được. Lại nữa, lời văn
của đức Thầy còn có mãnh lực hấp dẫn quần chúng một cách phi thường nên
thính giả nhiều khi mũi lòng rơi lệ, liền phát bồ đề tâm, quy y đầu
Phật. Nhiều nho sĩ văn gia, nhiều trí thức tân học đỗ cao (cử nhơn, tấn
sĩ) đều bái phục đức Thầy vì tài ba, vì đức hạnh. Thật Ngài là một bực
thượng trí anh tài, một bực sinh nhi tri vậy".
Ngài diễn thuyết 107 địa điểm khác nhau để
khuyến nông, sản xuất lúa gạo cứu đói miền Bắc lúc bấy giờ đã chết trên
hai triệu người. Hịch khuyến nông của Ngài có tác động mạnh đến nông
dân và các giới:
"Kẻ phu tá cũng là trọng trách,
Cứu giống nòi quét sạch non sông.
Một phen vác cuốc ra đồng,
Thề rằng ruộng phải được trồng lúa khoai.
Mưa nắng ấy đâu nài thân xác,
Chí hy sinh dầu thác cũng cam."
Tham chính
Về tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết
sinh, tạm gián đoạn việc tu hành để làm tròn nghĩa vụ với đất nước với
dân tộc, ngài nói:
"Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha,
Đền xong nợ nước thù nhà.
Thiền môn trở gót Phật Đà Nam Mô".
# Lê Hiếu Liêm trong cuốn "Bồ Tát Huỳnh Phú Sổ" đã viết:
Ông Việt Nam còn hơn cả những người Việt
Nam nhất, ông là Phật Giáo hơn cả những người Phật Giáo nhất. ông là một
đại Phật Tử, đại thiền sư, đại Bồ Tát.
Qua ba câu thơ này, và qua cuộc đời ông,
đã gói trọn, một cách viên mã, đã kết tinh, một cách rực rỡ, đã hiển
sinh, một cách chói lọi, truyền thống yêu nước, truyền thống hành động
của Dân Tộc Việt Nam và của Phật Giáo Việt Nam.
Trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng này, dù
chỉ mới 25 tuổi, Huỳnh Phú Sổ đã thành lập hay tham gia, và đóng góp ở
vai trò lãnh đạo các tổ chức cách mạng yêu nước sau đây:
Năm 1945:
- Việt Nam Phật Giáo Liên Hiệp Hội;
- Việt Nam Vận Động Độc Lập Hội;
- Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất;
- Đệ Tứ Sư Đoàn Dân Quân;
Năm 1946:
- Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp (Chủ Tịch);
- Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng (Lãnh tụ và linh hồn);
Năm 1947:
- Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Nam Bộ (Ủy Viên Đặc Biệt);
- Mặt Trận Toàn Quốc.
Kêu gọi lòng ái quốc, đấu tranh cách mạng,
kháng chiến cứu quốc và cải tạo xã hội trong tinh thần Phật Giáo được
nhấn mạnh trong thời điểm từ năm 1943 đến năm 1947. Tuy nhiên ngay trong
thời kỳ đầu mới khai đạo những bài thơ kêu gọi lòng yêu nước, nghĩa
đồng bào, đấu tranh chống Thực Dân Pháp được viết một cách khéo léo, nửa
thật nửa hư để khỏi bị Thực Dân khủng bố.
Đọc suốt toàn bộ tác phẩm của Ông, mọi
người đều thấy sáng ngời một giòng thơ nhất quán, bất khả phân ly,
truyền đạo và yêu nước, truyền bá Phật Pháp và cứu nguy đất nước, một
giòng thơ liên tục, tuyệt vời dựng đạo, cứu đời không thể tách rời
nhau..
Để kết thúc tập "Bồ Tát Huỳnh Phú Sổ và Phật giáo thời đại"; Lê Hiếu Liêm viết: Huỳnh Phú Sổ Bất Tử!
Sự nghiệp của ông đã trở thành một phần tinh anh tuyệt đẹp của sự nghiệp Phật Giáo và sự nghiệp Việt Nam.
Các tác phẩm của Huỳnh Phú Sổ
Dù chỉ xuất hiện trên đời 27 năm, Huỳnh
Phú Sổ đã viết rất nhiều, rất phong phú. Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam
nói chung và tư tưởng Phật học nói riêng, ít có tác giả nào đã để lại
những tác phẩm đa dạng, về mọi chủ đề và có tính cách đi trước thời đại
như Huỳnh Phú Sổ. Ông để lại một số tác phẩm quan trọng sau đây và những
tác phẩm này là phần chính yếu, căn bản của giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo:
* Sấm Giảng Khuyên Người Đời Tu Niệm, tức
quyển nhứt, 912 câu, văn vần thể lục bát, viết năm 1939, khi 19 tuổi,
tại làng Hòa Hảo.
* Kệ Dân Của Người Khùng, tức quyển nhì, 846 câu, văn vần thể thất ngôn trường thiên, viết năm 1939, tại làng Hòa Hảo.
* Giác Mê Tâm Kệ, tức quyển tư, 846 câu, văn thất ngôn trường thiên, viết tại làng Hòa Hảo ngày 20-10 năm Kỷ Mão.
* Khuyến Thiện, tức quyển năm, 756 câu,
văn lục bát đoạn đầu và đoạn cuối, đoạn giữa thể văn thất ngôn viết tại
Chợ Quán năm 1941.
* Cách Tu Hiền Và Sự Ăn ở Của Một Người Bổn Đạo, tức quyển sáu, thể văn xuôi, viết năm 1945 tại Sài Gòn.
Ngoài sáu tác phẩm trên, còn khoảng 200 bài thơ và một số tác phẩm văn xuôi mà Huỳnh Phú Sổ đã viết từ năm 1939 đến năm 1947.
Ông còn dịch, một cách xuất sắc quyển Tăng
Đồ Nhà Phật bằng chữ Nho ra thành những thi kệ tiếng Việt. Có thể nói
ông là người Việt Nam đầu tiên đã sáng tác các thi kệ bằng chữ quốc ngữ.
Ngoài ra Huỳnh Phú Sổ còn để lại nhiều lời nói, câu chuyện do các nhân
chứng kể lại.
Các tác phẩm này, rất độc đáo trong thế kỷ
20 vì hơn 8/10 là thơ có hai chủ điểm rõ rệt, thứ nhất là thuyết giảng
Phật Pháp, khuyên người đời tu hành, ăn hiền ở lành, tâm trí hướng
thiện, sống và hành động trong tinh thần từ bi cứu khổ độ sinh của Đức
Phật. Các tác phẩm hướng về chủ điểm này được viết trong thời gian từ
năm 1939 đến năm 1942.
# Lý Khôi Việt nhận xét:
Chàng đã lội ngược dòng với thời thượng;
để đi về núi Cấm, núi Thất Sơn. Không đến những thủ đô của Đông phương
và Tây phương, chàng cũng không bắt chước những tư tưởng, ý hệ của thế
giới, dù là Ấu hay Á. Những ngôn ngữ của thời đại: dân quyền, duy tân,
những chủ thuyết của thế kỷ: cộng sản, tư bản, tam dân, quốc xã đối với
chàng là những gì xa lạ và không cần thiết. Vì chàng đã đi, đã đến, đã
sống trọn vẹn trong truyền thống Việt Nam mà tinh hoa cốt tủy là truyền
thống Phật Trúc Lâm Yên Tử nhập thế đời Trần, và truyền thống đạo Phật
Bửu Sơn Kỳ Hương bàng bạc khắp nhân gian miền Nam.
Không đến những thủ đô văn hóa chính trị
của thế giới mà chỉ về miền núi Cấm, núi Thất Sơn, thủ đô tâm linh của
đất nước hiển linh. Đó là một điều độc đáo. Không chạy theo những chủ
thuyết, ý thức thời thượng mà chỉ trở về và phục sinh truyền thống Trúc
Lâm Yên Tử và Bửu Sơn Kỳ Hương, đó đã là điều vi diệu. Và hơn thế nữa,
chàng thanh niên 20 tuổi của chúng ta khác hẳn những nhà trí thức và
cách mạng đương thời chỉ hướng về tầng lớp thị dân và tầng lớp Tây
phương hóa. Chàng đã đi vào nông thôn và đi đến quảng đại quần chúng
nông dân, một tuyệt đại đa số quốc dân Việt Nam.Hy hữu, tuyệt vời hơn
nữa là chàng đã ra giảng cho nhân gian con đường tu thân và cứu nước
không phải bằng học thuyết, chủ nghĩa, bằng lý luận, sách vở, bằng
truyền đơn hay súng đạn mà bằng thơ lục bát, thể thơ mang đầy hồn dân
tộc và dễ dàng đi vào muôn lòng nhân gian.
Những nhận xét của giới trí thức:
PHẬT GIÁO HÒA HẢO
NĂM LÝ DO GIẢI THÍCH SỰ PHÁT TRIỂN NGOẠN MỤC TỪ 1939 ĐẾN 1944, ĐƯA CON SỐ TÍN ĐỒ LÊN KHOẢNG 5 TRIỆU.
# GS. Minh Chi
Trước hết, quý vị có thể đặt câu hỏi: Con số 5 triệu tín đồ xuất xứ ở đâu, có đáng tin cậy không?
Xin trả lời: Quý vị đặt nghi vấn là rất
phải. Bởi lẽ ngay các con số thống kê tín đồ các tôn giáo lớn trên thế
giới, mặc dù in thành sách trong các tự điển bách khoa tôn giáo, như
cuốn “World Chrishan Encyclopedia” (Tự điển bách khoa Kitô giáo thế
giới) do Oxford xuất bản, hay cuốn “Dictionaire des Religions” của Paul
Poupart xuất bản (Pháp ngữ), cũng đều bị các học giả đặt nghi vấn. Lý do
dễ hiểu, niềm tin tôn giáo là chuyện sâu kín trong lòng mỗi người, khó
mà thống kê chính xác, chỉ có thể thống kê đại khái với sai số hàng vạn,
thậm chí hàng triệu.
Còn con số 5 triệu tín đồ Hòa Hảo, tôi
trích trong cuốn “Print and Power” (In ấn và quyền lực), của tác giả
Shawn Frederick Mc Hale, trường đại học Hawai xuất bản, trang 4. Hơn nữa
trong con số 5 triệu, phải kể cả số tín đồ của Bửu Sơn Kỳ Hương, đã
từng đi theo Phật Thầy Tây An, Đức Phật Trùm, ông Sư Sãi bán khoai v.v…
Nhưng phải đến khi Huỳnh Phú Sổ bắt đầu truyền đạo, con số tín đồ mới tăng vọt.
Vào năm 1939, Huỳnh Phú Sổ lúc bấy giờ còn
là một thanh niên 19 tuổi, tự tuyên bố mình là giáo chủ; là phái viên
của đức Phật ở cõi đời này, kêu gọi mọi người sống thiện và tin theo tôn
giáo của ông ta rao truyền.
Tôn giáo mới do Huỳnh Phú Sổ thành lập, có
tên Hòa Hảo, phát triển rất nhanh. Đến năm 1944, đã có tới 5 triệu tín
đồ. Nhưng sau đó, trong một cuộc xung đột tình tiết không rõ, Huỳnh Phú
Sổ lâm nạn. Tôi xin phép không phân tích tình tiết của sự việc, chỉ ghi
nhận Huỳnh Phú Sổ tỏ ra không đồng tình với một vài hành động của các đệ
tử mình làm, mà ông cho là trái với chủ nghĩa từ bi, bác ái của nhà
Phật.
Trong bài phát biểu ngắn gọn này, tôi chỉ
nói lên điều tâm đắc của tôi về “Sự thành công ngoạn mục của một phong
trào tôn giáo – Đạo Phật Hòa Hảo” do Huỳnh Phú Sổ khởi xướng, năm 1939,
khi ông còn là một thanh niên 19 tuổi, chỉ trong vòng không đầy 5 năm,
tức năm 1944 đã đạt con số tín đồ 5 triệu. Tài liệu nước ngoài và trong
nước đều nhất trí xung quanh con số 5 triệu tín đồ (Xem “Print and
Power”, sđd).
Câu hỏi: “Nguyên do ở đâu?”. Câu hỏi đã nhận được nhiều câu trả lời mà tôi xin phép khái quát lại như sau:
I. Khéo khai thác truyền thống kể chuyện miệng bằng thơ ở Nam Bộ:
Một lý do là đạo Hòa Hảo biết khai thác –
có thể là một cách tự nhiên, không cố ý – truyền thống kể chuyện miệng
của đồng bằng Tây Nam Bộ. Phải chăng, với một quần chúng đa số là nông
dân ít học, lối truyền giáo bằng thi ca, bằng vè là thích hợp nhất, bởi
vì dễ nghe, dễ nhớ.
Tôi trích dẫn dưới đây một vài vần thơ do ông Huỳnh Phú Sổ sáng tác và được lưu hành rộng rãi:
“Non sông rực rỡ chói ngời
Mãnh gương Phật đạo soi đời cổ kim”
“Theo đời gương phẩm Thích Ca
Dốc đem tâm chí tìm ra đạo mầu”
“Ta thừa vâng sắc lệnh Thế Tôn
Khắp hạ giới truyền khai đạo Pháp”
Người ta nói Huỳnh Phú Sổ ít học (chỉ đến
bậc tiểu học trở lại). Nhưng các bài sấm vè của ông dùng rất nhiều từ
Hán Việt, từ Phật học, chứng tỏ một trình độ Phật học cao, một sự vận
dụng kho từ Hán Việt phong phú. Đó lại một ẩn số nữa của Huỳnh Phú Sổ.
II. Đạo Hòa Hảo tuy về mặt giáo lý, chủ yếu dựa vào đạo Phật, nhưng về mặt tổ chức lại chịu ảnh hưởng nhiều của phương Tây.
Thí dụ, Hòa Hảo thành lập Đảng chính trị,
sử dụng phương tiện in ấn để truyền đạo. Sử liệu Hoà Hảo cho biết, từ
năm 1939 đến 1965, nhiều bài giảng của Huỳnh Phú Sổ tái bản hơn 200 lần,
với tổng số bản in là 800.000 bản.
Phải chăng đây là một lý do nữa giải thích sự thành công nhanh chóng và ngoạn mục của đạo?
III. Mùi vị “Tận thế” (Apocalyptic) của giáo lý được rao giảng:
Huỳnh Phú Sổ tuyên bố nhân loại đang ở
trong thời kỳ “Hạ ngươn” là kỷ nguyên của tội ác hoành hành, chiến tranh
liên miên, thiên tai dồn dập, bệnh dịch cùng khắp. Huỳnh Phú Sổ viết:
“Thiên tào đã xét định, khắp chúng sanh trong thế giới, trong cái buổi
Hạ Ngươn này, say mê vật dục, chìm đắm trong biển lợi danh gây nên
nghiệp quả, luật trời đã trị tội v.v…” (Xem “Tôn chỉ hành đạo Phật giáo
Hòa Hảo của đức Huỳnh giáo chủ”, trang 7, NXB Tôn giáo, 2002).
Đúng như vậy, thời kỳ Huỳnh Phú Sổ bắt đầu
truyền giáo là thời kỳ bắt đầu cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai, với
những tổn thất nhân mạng và tài sản không kể xiết. Vì là một cuộc đại
chiến thế giới, cho nên Việt Nam lúc bấy giờ là thuộc địa và xứ bảo hộ
của Pháp, cũng bị họa lây và trở thành chiến trường xung đột giữa Pháp
và Nhật, trở thành hậu phương góp công của cho cuộc chiến tranh Đại Đông
Á do đế quốc Nhật khởi xướng. Nạn đói khủng khiếp làm hơn 2 triệu người
Việt Nam chết năm 1945 là con đẻ của tình hình này. Trong một thời kỳ
nhiễu nhương, tội ác, chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh, đói kém, dân
chúng khốn khổ, lầm than như vậy, thì lời kêu gọi của giáo chủ Hòa Hảo,
mang hình thức sấm truyền, tất nhiên là có một sức hấp dẫn đặc biệt.
Nhưng theo chúng tôi nhận định 3 lý do trên là lý do phụ. Hai lý do 4 và 5 là chủ yếu, cho nên tôi xin phép nói dài hơn.
IV. Phật giáo Hòa Hảo coi nhẹ hình
thức, bồi dưỡng đức tự tin ở bản thân, đơn giản hóa nghi lễ, coi trọng
lối hành đạo gần gũi dân chúng, đặc biệt là dân chúng nghèo.
Huỳnh Phú Sổ đích thân chữa bệnh – kể cả
những bệnh hiểm nghèo và theo sử liệu để lại ông đã thành công trong
nhiều trường hợp. Ngày nay, với nền y học hiện đại, với những thành tựu
mới, vang dội về khoa chữa bệnh bằng tâm lý (Psycho therapy), phải thừa
nhận ảnh hưởng lớn của trạng thái tâm lý người bệnh đối với việc chữa
bệnh. Trong cuốn “Con người, một ẩn số” (“L’Homme, cet inconnu”), tác
giả bác sĩ Carrel (giải thưởng Noben) đã nêu một số trường hợp do ông
đích thân quan sát người mắc bệnh hiểm nghèo đã được chữa khỏi bệnh, chỉ
dựa vào niềm tin và cầu nguyện mà thôi. Đấy là những chuyện cá biệt,
nhưng có thực, xảy ra không phải riêng cho Thiên Chúa giáo mà cho nhiều
tôn giáo khác.
Nhưng ở đây, chúng ta đang nói về Phật
giáo Hòa Hảo. Thành công ngoạn mục của đạo Hòa Hảo, trong một thời gian
ngắn, từ 1939 đến 1944 đã đưa con số tín đồ lên 5 triệu, không phải chỉ
ở nội dung giáo lý dễ hiểu, hình thức giáo lý dễ thực hành, mà còn ở
tác phong của người truyền giáo nói và làm đi đôi, lý thuyết và thực
hành nhất trí. Một tác phong mà trước Huỳnh Phú Sổ, các lãnh tụ của đạo
Bửu Sơn Kỳ Hương có liên quan mật thiết với đạo Hòa Hảo đã làm rồi như
Phật Thầy Tây An, đức Phật Trùm, Sư Sãi bán khoai.
Nói một cách khác, các lãnh tụ truyền giáo
Hòa Hảo không phải chỉ rao giảng giáo lý của họ, mà toàn bộ cuộc sống
của họ là hiện thân của giáo lý đó, không những họ giảng hòa hiếu mà
thực sự họ sống hòa hiếu, và khi họ giảng và sống hòa hiếu, họ tin là
quần chúng tín đồ đi theo họ, đều muốn và sống hòa hiếu như họ. Hãy hỏi:
Ai, dù là tín đồ hay không phải tín đồ Hòa Hảo, ai lại không muốn sống
hiếu thuận với ông bà tổ tiên, ai lại không muốn sống hòa hài đoàn kết
với hàng xóm, láng giềng, bè bạn? Phải chăng, thưa quý vị, một bí mật
của sự thành công ngoạn mục của đạo Hòa Hảo là các nhà truyền giáo của
họ đã rao truyền một giáo lý mà cả đời họ là hiện thân sống động: Cái gì
họ nói là họ sống, họ làm; cái gì họ làm, họ sống thì họ mới nói, theo
đúng phương châm "Ngôn hành hiệp nhất" của triết gia Vương Dương Minh
đời Tống, tuy rằng họ có thể không biết Vương Dương Minh là ai.
Họ có thể không biết Vương Dương Minh là
ai, nhưng giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, tự tuyên bố mình là đệ tử của Phật
Thích Ca rất có thể đã ghi lòng tạc dạ lời Phật Thích Ca giải thích Như
Lai, tức Phật là gì?
“Này các Tỷ kheo, Như Lai nói gì làm vậy,
làm gì nói vậy. Vì rằng nói gì làm vậy, làm gì nói vậy, nên được gọi là
Như Lai.” (Tiểu Bộ kinh, tập I, bản dịch của HT.Thích Minh Châu, trang
509).
Trong sách Phật giáo, có từ thân giáo,
nghĩa là lấy tự thân mình làm gương sáng giáo dục cho người khác. Không
những các lãnh tụ Hòa Hảo như Phật Thầy Tây An, và đức Huỳnh Phú Sổ thực
hành như vậy, mà mỗi tín đồ Hòa Hảo đều làm như vậy. Họ đều thực hành
thuyết bốn ân, sống hòa hiếu với cha mẹ, tổ tiên, hàng xóm láng giềng
v.v… Họ truyền đạo không chỉ bằng lời nói, mà bằng cuộc sống cả đời họ,
cuộc sống hằng ngày của họ. Phải chăng nhờ đó mà đạo Hòa Hảo lan truyền
rất nhanh từ năm 1939.
V. Tôi xin phép gút lại bài tham luận của tôi trong điểm V:
Sự thành công ngoạn mục của Phật giáo Hòa
Hảo, chủ yếu còn ở chỗ, từ tiền thân của nó là đạo Bửu Sơn Kỳ Hương cho
nên năm 1939, khi với Huỳnh Phú Sổ, nó mang tên chính thức Phật giáo Hòa
Hảo – tức là Phật giáo ở làng Hòa Hảo, luôn luôn các thế hệ giáo chủ
của nó đều khẳng định “cốt lõi giáo lý của đạo Hòa Hảo chính là giáo lý
của Phật Thích Ca tuy cội nguồn ở Aán Độ, nhưng đã được truyền đến nước
ta vào những năm đầu CN, tức là một tôn giáo có truyền thống hơn 19 thế
kỷ của một đạo dân tộc, hòa vận mệnh của mình vào vận mệnh của dân tộc,
đến mức thi sĩ cận đại Hồ Dzếnh có câu thơ:
“Trang sử Việt
Đồng thời là trang sử Phật
Trải qua bao độ hưng suy
Có nguy mà chẳng mất”.
Hay là hai câu thơ của thi sĩ Huyền Không:
Mái chùa che chở hồn dân tộc,
Nếp sống muôn đời của tổ tông.
Thơ ca có phần thi vị hóa thực tế, một
phần nào huyền thoại hóa thực tế, nhưng cốt lõi của thực tế vẫn được bảo
tồn, cùng với bản sắc dân tộc. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, vào buổi
tiếp đoàn đại biểu Giáo hội Phật giáo Việt Nam sau ngày mới thành lập
(1981), có nói một câu mà không rõ vì sao báo chí lúc bấy giờ không nhắc
tới: “Trong bụng người Việt Nam nào cũng có ông Phật”.
Phật giáo Hòa Hảo tự nhận mình là kế tục
đạo Phật, không có một tín đồ Hòa Hảo nào phủ nhận sự kiện này, trái lại
còn lấy đó làm tự hào. Cuốn “Để hiểu Phật giáo Hòa Hảo” của Thanh Sĩ và
Vương Kim, in ngay ở trang bìa 4 câu thơ:
Phật xuất An Giang đủ phép mầu
Giáo truyền đạo Thích rất cao sâu
Hòa trong sanh chúng gieo điều thiện
Hảo ý đưa về Kiến Bửu Châu.
Quan hệ giữa đạo Phật nói chung và Phật
giáo Hòa Hảo nói riêng trên bình diện giáo lý và thực hành là một đề tài
rộng lớn, rất lý thú, không thể bàn ở đây. Chúng tôi chờ đợi ở quý học
giả của Phật giáo Hoà Hảo một công trình khoa học có tầm cỡ về chủ đề
này. Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam sẽ rất hoan nghênh một công trình
như thế.
Xin trân trọng cảm ơn sự chú ý của quý vị.
http://www.buddhismtoday.com/viet/dien/phatgiaohoahao.htm
(TRÍCH DỊCH TỪ BỘ TỰ ĐIỂN BÁCH KHOA UY TÍN THẾ GIỚI BỘ ENCYCLOPAEDIA BRITANNICA - ANH QUỐC)
Huỳnh Phú Sổ là một triết gia Việt Nam, là
người chủ trương chấn hưng Phật giáo và là người sáng lập đạo Phật Giáo
Hòa Hảo năm 1939.
Ông bắt đầu thuyết giảng về sự chấn hưng
nền Phật giáo, chủ trương sự quay trở lại tinh thần Phật giáo nguyên
thủy (Thượng tọa phái: Đạo của những người đã có thành quả tu tập) và
nối kết với tư tưởng đại thừa thịnh hành khắp Việt Nam, Ông đề cập sâu
đến cách sống mộc mạc, bền bỉ, cùng hình thức thờ cúng đơn giản và sự tự
giải thoát. Đạo Phật Giáo Hòa Hảo là một sự kết hợp giữa đạo Phật và
truyền thống thờ cúng Tổ tiên cùng với những nghi thức nuôi dưỡng đời
sống tâm linh, cùng những tinh tuý của Khổng giáo và những sinh hoạt
thực tiễn phù hợp bản xứ người Việt Nam.
Bằng lời nói của mình, Ông có khả năng
cuốn hút thính gỉả một cách mãnh liệt và được biết đến dưới danh hiệu
Ông “Đạo Khùng”. Ông đã tiên đoán chính xác sự thất bại của Pháp trong
thế chiến thứ hai và sự xâm chiếm của người Nhật ở Đông Dương.
Sự thành công của Ông trong vai trò một vị Giáo chủ đã khiến cho những người tín đồ gọi Ông là Phật Sống.
----------------------------------------
Nguyên văn bản tiếng Anh, nguồn Website: www. Britannica. com. Inc.
Huynh Phu So.
Vietnamese philosopher, Buddhist reformer, and founder (1939) of the religion Phat Giao Hoa Hao.
He set about preaching Buddhish reform,
advocating a return to Theravada (Way of the Elders) Buddhism, from the
Mahayana (Greater – Vehicle) form prevalent in Vietnam, and stressing
austerity, spartan living, simple worship, and personal salvation. Hoa
Hao is an amalgam of Buddhism, ancestor worship, animistic rites,
elements of Confucian doctrine, and indigenous Vietnamese practices.
In speaking, he exerted an almost hypnotic
influence over his audiences and became known as Dao Khung (Mad Monk).
He predicted with accuracy the fall of France in world war 2, the
Japanese invasion of Indochina…
His success as a prophet led his followers to call him the Phat Song (Living Buddha).
# TRÍCH HỒI KÝ CỦA HỌC GIẢ NGUYỄN HIẾN LÊ (*)
Hai anh Tân Phương và Việt Châu (**) đều
như tôi rất mừng khi Nhật đổ bộ lên Sàigòn, mong Nhật đuổi Pháp đi,
nhưng không thích gì Nhật, không học tiếng Nhật. Tân Phương không làm
chính trị, mà Việt Châu cũng vậy, nhưng Việt Châu không nhớ do một cơ
hội nào được nghe Thầy Tư Hòa Hảo (tức Huỳnh Phú Sổ) xuất khẩu thành
thi, lấy làm lạ, nhất là thấy Thầy như có một ma lực gì kỳ dị, thu phục
được rất nhiều người, nên từ ngạc nhiên sinh ra ngưỡng mộ.
Việt Châu bảo tôi: “Con người đó thật kỳ
dị. Mỗi ngày ngồi xe hơi đi mấy trăm cây số, diễn thuyết hai ba nơi, mỗi
nơi nói thao thao bất tuyệt trong hai, ba giờ ở giữa trời, trước một
đám đông nông dân hằng ngàn người, ai nấy im phăng phắc như nuốt từng
lời một, có kẻ khóc mướt nữa. Có lần đương diễn thuyết thì trời đổ mưa,
Thầy Tư vẫn nói mà dân chúng vẫn đứng nghe dưới mưa. Lần nào diễn thuyết
xong rồi cũng lên xe đi nơi khác liền, không thấy mệt nhọc, vẫn ung
dung làm thơ. Mà ăn rất ít, toàn đồ chay. Sinh lực sao mà dồi dào thế!
Sức lôi cuốn, thôi miên quần chúng sao mà mạnh thế “
Tôi cũng rất ngạc nhiên, cho là một dị
nhân, và tôi bỗng nhớ tới Raspoutine thời Nicolas 2 ở đầu thế kỷ, nhưng
không nói ra. Raspoutine cũng có sức mạnh phi thường, cũng cò tài thôi
miên, nhưng đời sống bê bối, hình dáng ghê tởm, rõ là một nhân vật bất
thường, còn Huỳnh Phú Sổ thì ai cũng phục là người nghiêm trang, đạo
đức.
(*) Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, Nhà xuất bản Văn Học 1997.
(**) Tức Nguyễn Xuân Thiếp, Nhà thơ bút
hiệu Việt Châu, người gốc Hà Tây, là anh của Học giả Nguyễn Hiến Lê, và
là một đệ tử trung thành của đức Huỳnh Phú Sổ.
NHẬN THỨC PHẬT GIÁO HÒA HẢO (*)
# Trần Nguyên Bình Giáo Sư Sử học
Phật Giáo Hòa Hảo hưởng ứng lời kêu cứu
thiết tha của lịch sử dân tôc và lịch sử loài người đứng ra nhận lãnh
một sứ mạng. Sứ mạng đó là võ trang tinh thần cho nòi giống để chặn ngăn
mọi luồng tư tưởng tà nguỵ từ bốn phương tám nẻo tràn vào, rồi đứng lên
trên cái ưu thế của dân tộc Việt đã được giác ngộ qua cơn khói lửa
triền miên, mà thiết lập một “Niết Bàn nơi hạ giới” cho loài người.
Muốn hiểu rõ sứ mạng đó phải thực hiện ra
sao, chúng ta cần trở lại dĩ vãng cách đây 100 năm, để xem tất cả những
sức lực chính trị kinh tế, văn hóa nó đã đè nén xã hội Việt như thế nào.
Khi nước ta tiếp xúc với Tây phương, thì
cái văn hóa bệnh hoạn thời Nguyễn không đủ sức kháng cự với cái văn hóa
đại kỹ nghệ, đại thương mại đương tích cực tìm đường phát triển ra bên
ngoài, đặc biệt vào Châu Á và Châu Phi. Văn hóa thời Nguyễn chỉ là văn
hóa vụ hình thức, rỗng tuếch về nội dung. Đa số các nhà Nho không nuôi
chí học những thứ gì cần thiết cho dân tộc, đất nước mà chỉ cốt gọt giũa
câu văn cho óng chuốt, câu thơ cho điêu luyện, hợp điệu hợp vần và gác
ngoài tai, không chịu tìm tòi nghiên cứu tất cả những biến chuyển bên
ngoài quốc
tế.
Để cứu vãn tình thế của nước nòi, rộng ra
cứu vớt loài người. Phật Giáo Hòa Hảo ra đời, với sứ mạng đem đuốc từ bi
đốt cháy mọi mê lầm để dẫn dân Việt từ chỗ đại bi đến đại giác, đứng
lên làm cách mạng bằng một đại hành hoàn thành đại đạo cho toàn dân.
Sứ mạng thật nặng nề, khó khăn, nhưng cũng
thật cao cả. Chúng ta hãy lắng tâm tỉnh trí, mở các tập Thi Văn Sấm
Giảng ra, thắp nén hương lòng lên mà đọc, đọc với tất cả tấm lòng tha
thiết thương yêu nòi giống, thương yêu nhân loại, chúng ta sẽ thấy ở đây
những gì cần phải học, cần phải biết, những gì cần phải cứu vớt, cứu
vớt lấy bản thân chúng ta đang chìm đắm trong hôn mê, trong ngõ lợi
đường danh, cứu vớt lấy dân tộc đang phân hóa một cách ghê sợ do những
tư trào quốc tế tràn vào xung đột lẫn nhau, để rồi, tiến lên góp phần
với mọi cá nhân tiến bộ, mọi tổ chức tiến bộ, mọi quốc gia tiến bộ trên
thế giới mà cứu vớt loài người đương đứng trên bờ vực thẳm, có thể vì
một giây điên khùng mà tự tiêu diệt bằng đủ loại vũ khí hạch tâm.
Phật Giáo Hòa Hảo ra đời với một sứ mạng
cứu vớt. Vậy sự cứu vớt đó khai triển như thế nào, bắt đầu từ đâu để rồi
chấm dứt ở nơi đâu?
Trong hoàn cảnh đất nước sống quằn quại
dưới gót sắt của thực dân Pháp, những người hơi tỏ ra yêu nước thương
nòi là bị thực dân kiềm chế hoặc bắt tù đày, giam cầm; còn đa số quốc
dân trí thức đuổi theo danh lợi lãng quên sự nghiệp tổ tông. Khối dân
quê đông đảo nhất, thuần phác nhất, giữ được nhiều đức tính của dân tộc
nhất thì lại dốt nát, sống cơ cực làm chẳng đủ ăn, không người lãnh đạo.
Mà chính khối dân quê này trong suốt dòng lịch sử đã là chủ động cho
mọi cuộc phục hưng dân tộc. Những cuộc cách mạng Đinh Tiên Hoàng, Lê
Lợi, Quang Trung đều do nông dân hoàn thành bằng cách cung cấp nhân lực,
vật lực, tài lực.
Cho nên cứu vớt gì thì cứu, nếu không chú
trọng đến nông dân thì chỉ là làm cái công việc của dã tràng xe cát. Vì
lý do đó mà Phật Giáo Hòa Hảo xuất hiện ngay trong lòng nông dân để giác
ngộ họ, giúp họ tiến lên tự giải thoát lấy mình, giải phóng dân tộc rồi
góp phần vào công việc giải thoát loài người.
Vì Giáo chủ là người sinh trưởng ở nông
thôn đã đau khổ cái đau khổ của nông dân, ước ao và hy vọng cái ước ao
hy vọng của nông dân, nên mới hiểu được họ, cảm hóa được họ.
Sau hơn nửa thế kỷ sống dưới triều Nguyễn,
một triều đại đã xao lãng cái căn bản tinh thần của nòi giống, sau ngót
trăm năm Pháp thuộc, lòng người dân tựa đống tro tàn trong mùa gió
lạnh, họ sống không có chỉ nam, mất tin tưởng ở bản thân mình, ở dân tộc
mình, trước sự tràn lan của nền văn minh vật chất Tây phương. Bởi vậy,
việc cần thiết là phải gây cho họ lòng tin ở tự mình, ở dân tộc mình
bằng cách phác vẽ cho mọi người một lý tưởng nhân sinh, một lý tưởng
sống.
Lý tưởng đó là lý tưởng Phật Giáo Hòa Hảo,
một lý tưởng tổng hợp cả ba luồng tư tưởng lớn nhất ở Châu Á là Phật
giáo, Khổng giáo và Lão giáo.
Từ Đinh qua Lê, Lý, Trần, ba luồng tư
tưởng này đã ảnh hưởng rất lớn đến nhân sinh và kiến quốc của dân Việt,
ngày nay chỉ cần hiện đại hóa bằng tinh thần khoa học Tây phương, tinh
thần từ bi bác ái của nhà Phật, tinh thần nhân thứ của Khổng Tử, tinh
thần tiêu dao không màng danh lợi của Lão Tử, được phô diễn trong những
lời vàng ngọc, khi thì như hiệu lệnh, khi thì như nhắn nhủ khuyên răn,
khi thì như cảnh cáo, thấy bàng bạc khắp trong Thi Văn Giáo lý của Đức
Huỳnh Giáo Chủ
Ở
trên chúng ta đã nói xã hội Việt trong thời Pháp thuộc băng hoại và thối
nát như thế nào. Cờ bạc rượu chè đàng điếm hoành hành khắp nơi, mê tín
dị đoan đè nặng lên mọi tầng lớp xã hội. Vấn đề đặt ra cho Phật Giáo Hoà
Hảo là phải cải tạo hết những cái bẩn thỉu trong xã hội. Công việc thực
khó khăn , chỉ có cách dùng cái quyền uy tinh thần, để tâm phúc mọi
người bằng giác ngộ. Trong tôn chỉ hành đạo của Phật Giáo Hòa Hảo, rượu
chè, thuốc sái bị cấm. Vàng mã, thầy bùa, thầy pháp, làm chay đàn bị coi
như những thứ tin nhảm, mê hoặc lòng người.
Xá với phường là trò kỳ quái,
Làm chay đàn che miệng thế gian.
………
Những giấy tiền vàng bạc cũng thôi,
Chớ có đốt tốn tiền vô lý.
Tất cả những điểm trên là những chủ trương
cải tạo cần thiết trong Phật Giáo Hòa Hảo mà chúng ta được thấy thực
hiện ngay từ bước đầu. Đi xa hơn, chúng ta sẽ gặp một niềm tin lớn được
xây đắp lên cho tương lai.
..........
Lý tưởng Phật giáo thật là
thích hợp với tư tưởng cốt cán của dân tộc ta, mà Phật Giáo Hòa Hảo lại
là một luồng tư tưởng tổng hợp Phật Khổng Lão, một thứ tổng hợp gạn lọc
qua tinh thần Tiên Rồng đã làm cho nước nhà thoát ra khỏi âm mưu diệt
chủng của người phương Bắc mà thành một quốc gia có một văn hóa riêng
biệt, nó chối bỏ tất cả những thứ văn hóa nô dịch, nhưng luôn luôn sẵn
sàng hấp thu những tinh hoa của nền văn hóa khác, để tự do dân tộc, tập
trung nhân lực, tài lực, vật lực, vùng lên cao cả và đại hùng hoàn thành
sứ mạng, thiết lập một “Niết Bàn nơi hạ giới". Chỉ lúc đó và chỉ sau
lúc đó, Phật Giáo Hòa Hảo mới hoàn thành được sứ mạng của mình:
Chừng ấy mới tịnh vô nhứt vật,
Bụi hồng trần rứt sạch cửa không,
Chuông linh ngân tiếng đại đồng,
Ta bà thế giới sắc không một màu.
…………………………………….
(*) Trích trong lời Bạt, Nhận Thức Phật Giáo Hòa Hảo, Nguyễn Văn Hầu, Hương Sen xuất bản 1970.
ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ LÀ MỘT TRIẾT GIA VIỆT NAM(*)
# Phạm Công Thiện, Nguyên Giáo sư triết học Đại học Vạn Hạnh Saigon
Có lẽ không ai mà không biết Đức Huỳnh Phú
Sổ là Đức Giáo Chủ của Phật Giáo Hòa Hảo, nhưng ít ai biết rằng Đức
Huỳnh Giáo Chủ là một triết gia Việt Nam. Chẳng những thế, không phải
chỉ triết gia Việt Nam như bất cứ một triết gia nào xứng đáng được gọi
là “triết gia “mà Đức Huỳnh Giáo Chủ lại đúng là một minh triết, một
thánh triết, trong mọi ý nghĩa cao siêu nhất của danh từ.
Khi tình cờ đọc một bộ từ điển bách khoa
có thẩm quyền nhất thế giới, bộ Encyclopaedia Britannica, dở qua cuốn 6,
trang 181, tôi thấy tên tuổi và cuộc đời sự nghiệp của Đức Huỳnh Giáo
Chủ chiếm trên nửa cột chữ in nhỏ trên trang giấy tự điển, mấy hàng chữ
đầu đã đập mạnh vào mắt tôi : “Huynh Phu So is a Vietnamese philosopher…
“Hiển nhiên mấy hàng chữ tiếp tục cũng xác định thêm rằng Đức Huỳnh
Giáo Chủ là nhà cải cách Phật giáo và nhà sáng lập Phật Giáo Hòa Hảo,
nhưng chính điều xác định đầu tiên của Encyclopaedia Britannica đã làm
tôi chú ý đặc biệt: “Huỳnh Phú Sổ là triết gia Việt Nam …” Mặc dù tôi có
thói xấu giống như Aldous Huxley là hay thích đọc tự điển như đọc tiểu
thuyết (Aldous Huxley rất say mê đọc bộ Encyclopaedia Britannica), nhưng
không phải bất cứ cái gì tự điển đã định nghĩa thì tôi tin ngay lập
tức; bản tính cố hữu của tôi là ngờ vực tất cả định nghĩa của tất cả tự
điển và từ điển.
Tuy nhiên, lúc thấy Encyclopaedia
Britannica gọi Đức Huỳnh Phú Sổ là “triết gia Việt Nam “thì tôi bỗng
ngừng lại và bắt đầu suy nghĩ. Bao nhiêu âm hưởng bất ngờ xoáy tròn xung
quanh một danh từ quen thuộc.
Từ lâu, tôi đã có thói quen nghĩ rằng Đức
Huỳnh Giáo Chủ là một thiên tài tôn giáo dân tộc, là một đại Bồ Tát
trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, là tất cả những gì đáng tôn kính trong
vị thế của một Giáo chủ một tôn giáo gồm nhiều triệu tín đồ ở Việt
Nam. Nhưng tôi chưa nghĩ đến khía cạnh “triết gia" của Huỳnh Giáo Chủ.
Hiển nhiên tất cả mọi Giáo chủ tôn giáo đều là triết gia ở một bình diện
nào đó, và tất cả mọi triết gia ở trên tất cả bình diện đều không thể
là Giáo chủ được, nếu người ta hiểu được tính thể chân chính của triết
lư như là triết lý.
Một triết gia có thể là một triết gia về
tôn giáo với một nền tảng triết lý về tôn giáo, nhưng một nhà tôn giáo
học không hẳn bị bắt buộc phải là một triết gia, và nhất là một nhà tu
hành tôn giáo và nhất là một Giáo chủ tôn giáo lại không nhất thiết phải
cần đến một triết lý nào cả, nhất là thứ triết lý kinh viện nhà trường.
Tuy nhiên nếu triết lý được hiểu là triết lý trong tất cả mọi ý nghĩa
toàn diện của triết lý thì không có ai có thể chạy thoát ra ngoài cái
vòng tròn khủng khiếp của triết lý, dù triết lý được hiểu theo nguyên
nghĩa Philosophia hay được hiểu theo nguyên nghĩa Minh triết Đạo lý của
Đông phương.
Nếu được hiểu theo nghĩa nguyên vẹn toàn
diện thì Đức Huỳnh Giáo Chủ đúng là một triết gia Việt Nam vĩ đại mà chỉ
có người nào nắm trọn tất cả triết lý Tây phương và đạo lý Đông phương
thì mới có khả năng nhìn thấy được tất cả ý nghĩa ẩn hiện của bốn chữ
triết lý Việt Nam.
Một thanh niên Việt Nam mới 20 tuổi mà đã
cưu mang tất cả sức nặng bí ẩn của đạo lý Đông phương, đã thể hiện tất
cả khả tính có thể có được của tư tưởng Việt Nam, đã thể hiện trọn vẹn
tất cả tinh tuý của Mật tông, Thiền tông và Tịnh độ tông, đã thành tựu
oanh liệt truyền thống Thiền Lý Trần và Thiền Trúc Lâm Yên Tử của Việt
Nam, đã nối kết lại tinh thần Phật giáo nguyên thuỷ với đại nguyện và
đại hành của lý tưởng Bồ Tát trong Đại thừa, đã đốt cháy lại ngọn lửa
thiêng trao truyền từ lục tổ Huệ Năng, đã gây dựng lại với hai bàn tay
trắng tất cả những gì cao siêu nhất của dân tộc và của nhân loại trong
sự nghiệp tư tưởng và hành động của mình, đã nuôi dưỡng đời sống tâm
linh và hùng khí dân tộc cho bao nhiêu triệu người Việt Nam. Một người
như thế, chẳng những là một triết gia Việt Nam thôi, mà chính là minh
triết, thánh triết cho cả nhân loại.
(*) Lược trích trong “Phật Giáo Hòa Hảo trong dòng lịch sử dân tộc “, Nguyễn Long Thành Nam, Đuốc Từ Bi xuất bản 1991.
# Giáo sư Phạm Cao Dương (Nguyên Giáo sư Sử học Đại học Sư phạm và Văn khoa Saigon):
PHẬT GIÁO HÒA HẢO VÀ CHỦ TRƯƠNG CHẤN HƯNG XÃ HỘI
Lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử Phật
giáo nói riêng trong những năm cuối của thời kỳ Pháp thuộc, đúng hơn là
trong hai thập niên ba mươi và bốn mươi, đã được đánh dấu bởi hai biến
cố vô cùng quan trọng. Đó là sự phát sinh của phong trào chấn hưng Phật
giáo truyền thống, và sự hình thành của Phật Giáo Hòa Hảo. Cũng là Phật
giáo, nhưng hai phong trào này đã có những hoàn cảnh xuất hiện khác
nhau, những chủ trương khác nhau, những đường hướng khác nhau, những
điều kiện phát triển khác nhau, do đó, đã mang lại những thành quả khác
nhau. Có điều cả hai đều đã góp những phần vô cùng tích cực vào sự hình
thành của một nền Phật giáo Việt Nam thuần tuý sau khi tôn giáo này đã
du nhập vào nước ta từ hơn mười thế kỷ…..
Nhưng Đức Thầy đã không chỉ chú trọng tới
sự suy đồi của Phật giáo mà thôi, Ngài còn chú trọng nhiều hơn tới tình
trạng suy đồi của toàn thể xã hội Việt Nam về nhiều phương diện, trong
đó có sự suy đồi của cuộc sống đạo đức theo quan niệm bình thường và
theo quan niệm của Khổng giáo. Ưu tư về sự suy đồi của đạo đức xã hội
này đã được Đức Thầy nói tới rất nhiều trong Sấm giảng. Suy đồi trong
quần chúng cũng như suy đồi trong hàng ngũ giới trí thức mới, trong giới
trẻ cũng như giới già. Một sự suy đồi đến độ cùng cực khiến cho Đức
Thầy phải than rằng:
Chẳng có người nào tu niệm hiền lương.
(Sấm giảng Khuyên người đời tu niệm, câu 768)
Vì bá tánh thì “nghinh tân yểm cựu"
Phụ mẹ cha khinh rẻ Phật Trời,
Chẳng có kể công sanh, dưỡng dục.
(Kệ Dân của Người Khùng, câu 83-84)
# Nhà văn Sơn Nam
Ca dao là tâm ca, trường hợp của những câu
sấm, câu vãn ở miền biên giới Việt Miên, gần dãy Thất Sơn, Châu Đốc.
Nơi đây văn minh Tây phương xâm nhập trễ và khó khăn, hồi cuối thế kỷ 19
qua đầu thế kỷ 20. Sấm vãn do Phật Thầy Tây An và các giáo chủ nối tiếp
trở thành kinh nhựt tụng của mọi gia đình, lúc khẩn hoang nhọc nhằn ở
nơi đất thấp chỉ thích hợp với giống lúa thum đưng thuở ấy và vài giống
lúa sạ du nhập từ Cao Miên sau này.
Những bài sấm vãn được truyền tụng, gây
tin tưởng cho kẻ đang chịu nhẫn nại là được phước về sau; chịu đựng
không có nghĩa là ngồi một chỗ mà chờ ngày tận thế, nhưng phải nhập thế,
lo siêng năng trồng tỉa, làm tròn phận sự với cha mẹ, với xã hội, với
đất nước, với Phật, nên đọc bộ Kim cổ kỳ quan, các sách về giáo lý Phật
Giáo Hòa Hảo, của hệ phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa để thấy rằng ca dao Miền Nam
đã mang sắc thái đặc biệt, hồi đầu thế kỷ; đã là tín đồ thì ai cũng
thuộc vài chục vài trăm câu, gặp những trường hợp khó khăn về sanh kế,
về thiên tai thì đem ra mà dẫn chứng, để lấy lòng tin.
Sấm vãn lưu truyền ở Hậu Giang là ca dao,
là văn chương bình dân. Đó là luận đề lớn, để nghiên cứu. Muốn hoàn
thành công việc ấy chúng ta cần để nhiều thời giờ đến quan sát tại chỗ,
chọn lọc những câu sấm vãn nào được lưu truyền, được nhắc nhở nhiều
nhất, trong sinh hoạt hằng ngày.
Trong hoàn cảnh khó khăn, thầy Đoàn Minh
Huyên đã hiện đại hóa đạo Phật, nêu thái độ dấn thân (khẩn hoang, giữ
nước). Thầy và Giáo chủ Phật Giáo Hòa Hảo nối tiếp sau này, chẳng những
góp công về mặt chính trị, kinh tế để tô điểm vùng đất nghèo nàn, khó
sống nhất. Công ơn mà bấy lâu nay chúng ta đánh giá không đúng mức là sự
xây dựng về văn chương: đó là những lời khuyến dạy về đạo lý được diễn
đạt bằng lời lẽ bình dân, theo văn Nôm và theo thể thơ lục bát. Nhiều
đoạn trong sấm vãn đã thật sự trở thành ca dao ở vùng biên giới.
(Theo Tập san Nghiên cứu văn học, số 16 tháng 6 năm 1972)
# KIM ĐỊNH
Triết gia Kim Định viết:
Tôi vừa đọc xong tập “Phật Giáo Hòa Hảo
Yếu Lược”. Gấp sách lại, thấy tự lòng dấy lên một niềm vui đầy hy vọng:
đây chính là nơi đại diện cuối cùng của nền văn hóa nông
nghiệp. …………Về môi sinh,
thì đây là miền nông nghiệp trù phú nhất nước, với năng xuất gần gấp đôi
các nơi (3 triệu tấn lúa cho 1.885.000 mẫu, so với suýt soát 17 triệu
tấn cho 17.326.000 mẫu trong toàn quốc). Số dân là hai triệu ở khắp
trong 15 tỉnh miền Hậu Giang. Đông nhất là Châu Đốc, An Giang, Kiến
Phong tức là khối lớn, lại thêm đông đặc và được tổ chức thành hàng ngũ
rất chặt chẽ, thì dễ đủ sức đương đầu với mọi thử thách, dù cam go đến
đâu. Nhất lại về đàng giáo lý thì đã đạt được nét đặc trưng cao nhất có
thể. Trên đời mới thấy xảy ra ở đây là một:
Đường tu tiến của con người có thể chia làm ba giai đoạn lớn là Hữu Vi, Vô Vi, và An Vi.
Hữu Vi đi với Địa
Vô Vi đi với Thiên
An vi đi với Nhân....
…. Đó là kiện chứng minh bạch dứt khoát.
Kiện chứng thứ hai và rất đặc biệt, đó là bản thân Đức Huỳnh Giáo Chủ
không là một tăng lữ mà chỉ là một cư sĩ tại gia, là một nhà ái quốc,
một nhà đại cách mạng đã lập ra đảng Dân Xã, tức có chủ trương, có sách
vở, có cơ cấu tổ chức đầy đủ, không thể nghĩ ngợi gì nữa. Đó quả là một
thành tựu, cho tới đó chưa ai hiện thực nổi. Đó là bước từ đạo Phật bước
vào đạo Nhân, tức từ Tài Thiên đi sang Tài Nhân.
Đến khi đi vào chi tiết càng thấy rõ cái
bước sang qua xảy ra từ cơ cấu nền tảng, nên rất giống Việt Nho. Thí dụ:
Việc nhấn mạnh cần phải học hành, không được tin mù quáng, dù ông thầy
có đáng kính mấy cũng phải đưa óc thông minh ra để xét lời thầy trước
đã, có nên tin hay chăng. Rất giống Nho đặt Trí lên đầu: Trí Nhân Dũng.
Về thờ tự, thì cắt hết mọi phiền toái.
Không nhận thầy cúng, thầy tế, thầy bói, thầy phù thủy. Không cho đốt
vàng mã. Thờ Phật thì không có tượng, mà chỉ có một tấm vải màu dà để
tượng trưng sự hòa hợp nhân loại. Đã không chuông không mõ, không cho
dâng cúng chè xôi, thực phẩm. Không cấm sát sinh, chỉ cấm sát sinh để
tế. Không có cả chùa, chỉ có “độc giảng đường”, không phải để ở, mà chỉ
để giảng đạo, giống như Văn Miếu bên Nho vậy…
Quả là một kết tinh của Tam giáo.
Phật thì đã bỏ tượng, bỏ chùa, chỉ còn
tên, và giáo lý để đúng với câu “học Phật tu Nhân”. Thuyết là thuyết
Phật, nhưng thực hiện thì lại là Nhân. Đúng ra thì cũng là thực hiện
Phật, vì giữa Phật và Nho có rất nhiều mẫu số chung, như “tự lực tự
cường”. Phật nói hãy thắp đèn mình mà đi thì Nho cũng nói “doãn chấp kỳ
trung”; nền tảng như nhau, nhất là cả hai đều căn cứ trên Đạo Trống để
bàn nơi khác.
Pháp thì sự nhận định tính cách vô thường
của các pháp rất giúp vào việc tạo dựng nên tâm hồn xả bỏ, là điều quý
vô cùng nơi nhà cai trị, để dễ có lòng thái công là chìa khóa cho sự
thành công trong lãnh vực chính trị. Ngoài ra còn một số những điều rất
khó có thể hiểu cho người thông thường, như là thuyết “thập nhị nhân
duyên”, thì đề ra cho dân kính bái vậy thôi.
Tăng thì kể như không có. Phật Giáo Hòa
Hảo bản chất là tại gia, không nhận sư ni, nhưng theo lối nhu thuận của
Nho, là không chống đối, mà chỉ “kính nhi viễn chi”, sau khi dặn dò
phòng bị những tăng sư giả mạo, như về việc ma chay giỗ chạp, thì dạy
rằng: “giá trị ở chỗ tu tâm”, tự mình cầu nguyện, khỏi đi thuê khoán ai
cầu cho……
Tóm lại, xét chung nội dung giáo lý Phật
Giáo Hòa Hảo, thì chính là đạo Nhân, nhưng bọc ngoài bằng danh Phật. Thế
mà lại giữ được nét sùng mộ nhiệt tính của Phật giáo để đóng góp, nên
có thể bù trừ cho đạo Nhân nơi Nho. Đạo Nho là một thứ đạo “ung dung tự
tại” vì đạo nhân đã có đủ thiên địa nơi mình, khỏi cần phải bước đi đâu
(vạn vật gia bị ư kỷ). Đó là chỗ cao cả nhưng cũng là chỗ yếu kém của
Nho. Cao cả cho những tâm hồn có óc siêu lý cảm thấy được an nhiên tự
tại: còn đối với đại chúng thì khó thấy được, nên cần có sự thúc đẩy
mạnh hơn…..
…………………..
Những suy luận trên đây giúp ta thấy cái
thiên tài của Đức Huỳnh Giáo Chủ, khi bước từ Phật giáo đi sang tu Nhân.
Đó quả là đợt mới của cây Việt mọc lên tự nội, vì Giáo Chủ không có học
hành gì (học được hết tiểu học rồi cứ bệnh hoạn liên miên) mà đến 20
tuổi đột nhiên thông suốt đạo lý và bước qua nổi cái bước từ Thiên sang
Nhân, một bước đã bao đời không ai bước qua được, thì đủ biết là thiên
tài làm cho ta thêm lòng tin tưởng vào sinh lực lớn lao của nòi Việt, để
ta mạnh dạn đặt vào tương lai cái nhìn tươi sáng.
KIM ĐỊNH
# BS Trần Nguơn Phiêu:
……………..
....ông Huỳnh Phú Sổ đã giảng dạy cho Tín đồ một nội dung Phật Pháp đúng theo lời chuyển Pháp luân của đức Phật;
GIÁO LÝ PHẬT GIÁO HÒA HẢO:
Đạo Phật là đạo giác ngộ, chỉ lối đưa
đường dẫn dắt con người từ cõi đau khổ đến cõi an lạc. Đức Phật tức đức
giác ngộ đã vì lòng thường xót chúng sanh, khai ngộ cho tất cả mọi người
được giác ngộ như chính đức Phật.
Ông Huỳnh Phú Sổ đã giảng dạy cho tín đồ
một nội dung Phật pháp đúng theo lời chuyển Pháp luân của Đức Phật.
Những ai đã có dịp đọc lại các thuyết giảng của Đức Thầy đều phải khâm
phục vì ông đã đem giáo lý nhà Phật đến đại chúng nông dân một cách rất
gần gũi nhưng rất trọn vẹn, từ con đường trung đạo đến tam nghiệp, tứ
diệu đế đến tứ vô lượng tâm, tứ ân, ngũ giới, lục độ, bát chánh đạo,
thập thiện, thập nhị nhân duyên, Đức Thầy chỉ có một chút phần thay đổi
trong thứ tự Tứ Ân. Ngoài ra, trọn vẹn nội dung là đúng với những lời
Đức Phật đã dạy cho đệ tử của Ngài trong Phật giáo nguyên thủy. Ông
Huỳnh Phú Sổ không hề có chủ trương một nền Phật giáo nào khác. Đường
vào cõi Phật có ngàn pháp môn. Đức Thầy là người thấu hiểu căn cơ chất
phác của người nông dân, là những người ít học, không thể tự lực hành
trì các pháp tu tối thắng, tối cao để vượt ra khỏi tam giới, thoát nạn
trầm luân trong tam đồ lục đạo. Vì thế nên ông Huỳnh Phú Sổ đã chọn pháp
môn Tịnh Độ là một pháp tu phù hạp với căn cơ của người nông dân Nam
bộ. Ông khuyên đạo hữu: “Môn Tịnh Độ là môn cứu cánh – rán phụng hành
kẻo phụ Phật xưa”.
Khi chỉ mới 23 tuổi, ông đã viết bài ”Phật
là gì?” để tín đồ hiểu rõ hình ảnh đức Phật như Ngài đã tự giới thiệu
khi còn tại thế. Ngài là người giác ngộ, một đạo sư chỉ dắt chúng sanh
con đường và phương pháp đi đến giải thoát. Ông Huỳnh Phú Sổ đã cho tín
đồ sự hiểu biết để họ không bị mê hoặc, tôn sùng Đức Phật như một vị
Thần linh.
Thử đọc lại bài nói trên như một thí dụ
điển hình, để biết rõ những lời văn thực tiển, gần gũi của ông Huỳnh Phú
Sổ, những lời dạy dễ lãnh hội, đã ăn sâu vào tâm hồn chất phát của
người nông dân miền Nam: “ Phật giả là Giác giả (người giác ngộ). Giác
giả là tỉnh giả (người tỉnh thức)”
Khi Đức Thích Ca thành Phật thì Ngài nói
pháp Tứ đế mà độ đời trước hơn các pháp, và chỉ con đường Trung đạo cho
người hành theo.
Đường Trung đạo của Phật:
Không trưởng dưỡng xác thịt quá ư sung
sướng như: ăn nhiều, ngủ nhiều, chẳng lo làm công chuyện, chẳng học hỏi,
vì sung sướng thái quá thì sanh nhiều dục vọng mê đắm, làm cho trí đạo
tối tăm, không đạt huệ được.
Không nên hành xác hay ép xác thái quá
như: phơi nắng dầm sương, bỏ ăn bỏ ngủ, làm lụng quá sức lực của mình,
vì ép xác quá độ hay sanh bệnh họan nhiều, người mà đã mang bịnh tật
rồi, tinh thần kém cỏi, nhọc mệt trí hóa lu mờ, không đủ sức mà học Đạo
đặng.
Nên người biết Đạo, chẳng ép xác thái quá,
mà cũng chẳng để nó sung sướng quá độ, chỉ ăn ngủ có chừng mực, làm
việc vừa với sức mình, giữ gìn sức khỏe mới mong được Đạo pháp.
Vậy Phật chẳng buộc ai phải ăn ở khổ hạnh
và cũng chẳng biểu ai ăn ở sung sướng, chẳng ép ai ăn chay, chẳng xúi ai
ăn mặn, tùy theo trình độ và lòng nhơn của mình. Điều cần yếu là phải:
“LÀM HẾT CÁC VIỆC THIỆN
TRÁNH TẤT CÁC ĐIỀU ĐỘC ÁC
QUYẾT RỬA TẤM LÒNG CHO TRONG SẠCH”
Ông Huỳnh Phú Sổ đã có cả triệu tín đồ
hưởng ứng tu hành vì Ông đã thuyết giảng đúng trình độ đại chúng bình
dân trong đó phần lớn là nông dân, đúng thực trạng xã hội Việt Nam phần
đông là ít học, ít hiểu biết. Tuy nhiên, những bài giảng của Ông Huỳnh
Phú Sổ mang tính cách bình dân nên không khỏi bị một số Tăng Ni chê là
kém cỏi, tầm thường, hoặc giáo lý PGHH không có gì là cao siêu, là chân
chánh. Nhưng, những ai hiểu đạo Phật đếu phải công nhận là những bài
thuyêt pháp của Ông tuy giản dị nhưng rất trong sáng và chan hòa tư
tưởng Phật giáo. Ông chỉ đặc biệt chú trọng nhiều đến Tứ Ân như Phật
thầy Tây An. Ngoài ra Ông không có chủ trương đưa ra những tư tưởng Phật
học gì mới.
Trình độ nông dân của 90% tín đồ Ông vào
thời khoảng nhiễu nhương 1940 khó có thể thông hiểu được các tư tưởng
cao siêu chưa đựng trong thiên kinh vạn quyển của triết lý.
HÌNH THỨC TÍN NGƯỠNG CỦA PGHH
Sự thành công đặc thù của PGHH, đưa đến sự
hiện diện trường tồn ở miền Nam cho đến ngày hôm nay, mặc dầu trải qua
bao nhiêu biến cố tưởng cần phải suy gẫm cặn kẽ hơn.
Hình thức tín ngưỡng của PGHH là một yếu
tố quan trọng. Đây quả là một cuộc cách mạng, đang được nhiều học giả về
tôn giáo nghiên cứu.
Ông Huỳnh Phú Sổ đã thổ lộ trọng trách lâm
phàm của Ông là việc phải chấn hưng Phật pháp. Từ ngày chư Tổ bặt
truyền y bát đến nay, chơn pháp của Phật bị người đời làm sai tinh nghĩa
nên một ngày một suy đồi. Ông tự nhận là đệ tử trung thành của Phật
Thích Ca. Lãnh sứ mạng giáo truyền một nền đạo Vô Vi, khác với lối âm
thinh sắc tướng của phái Thần Tú. Ông kêu gọi:
“khuyên sư vãi mau mau cải hối
Làm vô vi chánh đạo mới mầu
Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao sâu.
Hãy tìm kiếm cái không mới có”
Vì thế Ông Huỳnh Phú Sổ chủ trương” theo Lục Tổ chớ theo Thần Tú…. Đạo vô vi của Phật ân cần, noi theo chí Thích Ca ngày trước”.
Ông Huỳnh Phú Sổ đã đặc biệt tạo nên một
nền Phật giáo mới lạ, một nền Phật giáo do các giới Phật tử tại gia điều
hành, một nền Phật giáo cấp tiến, không có giới Tăng lữ tham gia. Đức
Thầy tuy không chủ trương xây chùa, đúc tượng nhưng trong “lời khuyên
bổn đạo” Ông vẫn khuyên tín đồ phải kính trọng giới Tăng sĩ, vẫn khuyến
khích đi chùa vào các ngày rằm ngày vía của Đức Phật… Ông đã khéo léo
tránh tạo sự bất hòa giữa giới Tăng sĩ và cư sĩ tại gia. Đức Thầy viết:
“Hạng tại gia gồm tất cả đại chúng, tất cả thiện nam tín nữ chưa đủ
những điều kiện xuất gia, vì cảm thấy mình còn nặng nợ với non sông tổ
quốc, với gia đình, với đồng bào xã hội, nên chưa thể làm như các nhà
Sư, Ni Cô đặng.Tuy vậy, họ cũng sẵn sàng hoan nghinh ca tụng lý tưởng từ
bi bác ái đại đồng của nhà Phật và luật nhân quả do Phật thuyết ra. Thế
nên, ở tại nhà họ phượng thờ Đức Phật phát nguyện quy y, giữ gìn ít
nhiều giới luật, hằng coi kinh sách, sửa tánh răn lòng, ủng hộ các Sư.
Như thế họ cũng lần lần lên con đường giải thoát.”…
Ông đặt trọng tâm vào việc tu tâm sửa
tánh, khuyên không nên dựa vào hình tướng, lễ nghi. Hình tướng như tượng
Phật, chuông mỏ chỉ là những trợ lực, những phương tiện giúp dễ tu tập
nhưng lắm khi sự chấp vào hình tướng lại dẫn đến sự sai lệch đạo pháp.
Về thờ phượng, PGHH chủ trương các cư sĩ tại gia nên “thờ đơn giản cho
lòng tin tưởng trở lại tâm hồn….chỉ thờ một tấm trần màu dà… màu ấy là
sự kết hợp của tất cả các màu sắc khác, nên có thể tượng trưng cho sự
hòa hiệp của nhân loại không phân biệt chủng tộc cá nhân… Màu ấy tiêu
biểu cho tinh thần vô thượng của nhà Phật”……
Đặc biệt” đối với các tôn giáo khác” đức Thầy đã khuyên tín đồ “không nên đụng chạm đến cách thức tu hành của họ”……
SẤM GIẢNG THI KỆ CỦA HUỲNH PHÚ SỔ
Có rất ít bậc trí thức được biết là 40 năm
về trước. Ông Huỳnh Phú Sổ đã dịch nhiều thi kệ từ tiếng Hán ra Việt
ngữ cho tín đồ của Ông. Xin được nhân dịp nầy, thử đọc lại các câu chú
thường được niệm, trích ra từ tập Sấm Giảng Thi văn của Ông Huỳnh Phú
Sổ:
“Năng lễ sở lễ tánh không tịch
Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
Ngã thử đạo tràng như đế châu.
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ”
Ông Huỳnh Phú Sổ đã dịch thành thơ như sau, một cách rất sát nghĩa:
“Sự lạy Phật vốn không, yên tĩnh
Đạo cảm giao khó tính khôn bàn
Nay tôi ở trong đạo tràng
Cũng như kết chặt vào đoàn ngọc châu.
Mười phương Phật hiện bầu hình ảnh
Có bóng tôi cũng sánh cùng Ngài,
Từ chơn cho chí mặt mày,
Cúi đầu làm lễ nguyện rày quy y”.
……….
Về bài “rửa tay”:
Hán văn: “Dĩ thủy quán tưởng/ đương nguyện chúng sanh/ đắc thanh tịnh thủ/ thọ trì Phật pháp.”
Ông Huỳnh Phú Sổ viết:
“lấy nước, tôi rửa sạch tay
Nguyện cầu sanh chúng được tay thơm lành
Ngỏ hầu nắm pháp vô sanh
Giữ gìn lời Phật ban hành từ xưa”
Về bài “thỉnh chuông”
Hán văn: Nguyện thử chung thinh siêu
pháp giới / Thiết vi u ám tất giai văn / văn trần thanh tịnh chứng viên
thông /nhất thiết chúng sanh thành chánh giác”
Ông Huỳnh Phú Sổ viết:
“Nguyện tiếng chuông lành thông các cõi
Thiết vi địa ngục cũng nghe rành
Nghe rồi thân tịnh, tâm tròn sáng
Tất cả chúng sanh Phật đạo thành”
…………
Kết luận:
Trong những trình bày vắn tắt vừa qua về
giáo lý, Hình thức, tín ngưỡng, Sấm giảng, thi kệ PGHH, chúng ta có thể
hiểu được phần nào vì sao nền PGHH đã bén rễ sâu xa trong tâm hồn người
nông dân Nam bộ.
Đức Huỳnh Phú Sổ đã cách mạng, hiện đại
hóa PG truyền thống thành một nền PG thời đại. Những thành tựu ông đã
thực hiện trong thời gian ngắn ngủi 7 năm thật khó có thể giải thích
ngoại trừ phải chấp thuận ý kiến xem Ông là một vị Bồ Tát đã xuất hiện
sau nhiều kiếp tu tập để cứu rỗi nông dân ở địa linh Cửu Long.
………….
BS Trần Nguơn Phiêu
Arlington.Texas
Qua những nhận xét của giới trí thức, qua
hành trạng của Đức Huỳnh giáo chủ trước bối cảnh lịch sử của đất nước,
cho ta thấy Ngài là một người tràn đầy lòng yêu nước, là một thiên tài,
một Bồ Tát bổ xứ, một vị Phật hóa thân; hai vai gánh nặng đạo và đời.
Đạo, muốn chấn hưng về trạng thái nguyên thủy - vô tướng - vô cầu, loại
từ mê tín Thần quyền; Đời, muốn quét sạch ngoại bang, chấn chỉnh khuyến
khích nông nghiệp, đoàn kết dân tộc. Áp dụng tinh thần bình đẳng đại
đồng của nhà Phật trong cuộc sống.
Ngài không muốn thành lập một tông môn tôn
giáo mới, vì Ngài tự nhận mình là đệ tử trung thành của đức Phật, vì
thế PGHH không xây chùa, không có tu sĩ, không lập chức sắc, không nghi
lễ rườm rà, chủ trương học Phật tu nhân để làm tròn sứ mạng nhân luân
đối với đồng bào, xã tắc. 27 năm có mặt và 7 năm đóng góp cho cuộc
đời,Tạm gọi Ngài là một giáo chủ 20 tuổi quá trẻ mà thế giới chưa có ai
so cùng, thời gian quá ngắn mà đóng góp rất lớn cho xã hội, cho dân
chúng, tạo một nét văn hóa thuần Việt cho nền tín ngưỡng Việt Nam. Ngài
đã đi vào lịch sử nhân loại.
Tuy một tập thể tín ngưỡng nhân gian,
nhưng bao hàm các tư tưởng, trường phái triết học, tín ngưỡng Châu Á.
Ngài là hiện thân một Duy Ma Cật, một Tuệ Trung thượng sĩ; tinh thần vô
vi của Lão, nhân luân của Khổng Mạnh,siêu thoát của Phật giáo, cách tân
của khoa học, giản dị trong lễ nghi. Ngài kết nối tinh thần Trúc Lâm Yên
tử, nhưng Trúc Lâm đầu đà trong tay có quyền lực đủ khả năng thực hiện
lý tưởng xã hội và tôn giáo, Huỳnh giáo chủ là một truyền thống nông dân
Nam bộ, không quyền lực, với đôi tay và khối óc đã lập thành kỳ tích mà
nhân loại khó phủ bác, chỉ vỏn vẹn 7 năm đã làm nên lịch sử mà giới
hiểu biết phải nghiêng mình cẩn bái.
Suốt hàng ngàn năm lịch sử từ thời Hùng
Vương, trãi qua Lý Trần đến nay, không thiếu những anh hùng dân tộc,
nhưng bậc vĩ nhân có công với sơn hà xã tắc và phục hoạt tín ngưỡng tâm
linh không được mấy ai; Có lẽ Huỳnh giáo chủ trong thời cận đại xuất
hiện đúng lúc, sử sách cẩn trọng để lại đầy đủ những chi tiết về nhân
thân và hành hoạt mà tiền nhân đôi khi bị thất thoát. Lịch sử của Ngài
đầy đủ hơn cả các tiền nhân kế thừa, luôn cả Đức Phật thầy Tây An.
Qua những nhận định của các nhà trí thức
có uy tín, chúng ta thấy được tầm vóc to lớn, tư tưởng kỳ vĩ, công trạng
hiển hách của một thanh niên ngoài 20 trong thời gian rất ngắn đã để
lại cho nền tín ngưỡng, nền văn hóa và tấm lòng yêu nước... một gia tài
không thể phủ bác.
PHẬT GIÁO THĂNG TRẦM QUA CÁC THỜI ĐẠI
Lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn:
1. Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và phát triển rộng khắp.
2. Thời Nhà Lý - Nhà Trần là giai đoạn cực thịnh
3. Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái;
4. Từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn phục hưng.
Đại thừa có ba tông phái được truyền vào Việt Nam là Thiền tông, Tịnh Độ tông và Mật tông.
(Trích Tạng Thư Phật Học - HT Thích Thiện Hoa)
THÁI ĐỘ SAI LẦM CỦA PHẬT TỬ VIỆT NAM HIỆN TẠI
Vì thiếu phương tiện học hỏi chánh pháp
nên họ không phân biệt được Phật giáo và Thần giáo. Do đó, họ có những
tin hiểu sai lầm như sau:
A. THÁI ĐỘ SAI LẦM CỦA PHẬT TỬ
1. Thiên hình thức nghi lễ
2. Tin Phật như vị thần linh
3. Tin Phật qua những hình thức tà giáo
B. THÁI ĐỘ SAI LẦM CỦA GIỚI TRÍ THỨC NGHIÊN CỨU PHẬT
1. Căn cứ lý Nhân Quả
Nhân đã gây thì quả phải chịu; nguyện cầu, cúng tế, làm phước... của người khác không liên hệ gì đến người này cả.
2. Căn cứ thuyết vô ngã, vô trước
Nhìn vào Phật giáo thấy thuyết vô ngã, vô
trước thật là hệ trọng. Nếu người tu không phá được ngã chấp thì không
sao giải thoát được.
C. DUNG HÒA
1. Sai lầm của người nặng phần tín ngưỡng
2. Sai lầm của người nghiêng về triết lý
Nơi mỗi con người chúng ta đều có hai
phần, tình cảm và lý trí. Nếu có người chỉ thuần tình cảm, không có lý
trí thì họ chìm đắm trong biển thương yêu mê hoặc. Ngược lại có người
ròng rặt lý trí, không có tình cảm thì họ khô khan cô độc.
Một tôn giáo cũng thế, triết lý và tín
ngưỡng không thể thiếu một được. Nếu thiếu một, tôn giáo ấy sẽ chết mòn.
Cho nên, chủ trương cực đoan về triết lý của giới trí thức này cũng là
tai họa của Phật giáo.
(thientongvietnam.net)
Tóm kết:
Để tưởng nhớ tiền hiền liệt tổ, tiền nhân
có công với Đạo và Đời, tập sách mõng nầy tóm lược các danh nhân tiêu
biểu, lưu lại cho cháu con có một cái nhìn xuyên thông mà quốc sử và
giáo sử bàng bạc trong các trang mờ tỏ.
Kính dâng lên Tam bảo, chư tiền hiền, chư
Thánh Tăng và Bồ Tát bổ xứ lòng tôn kính vô lượng dưới năng lượng vô
biên của các Ngài. Hy vọng nền tảng đạo đức và lý tưởng của hiền nhân sẽ
được hậu thế truyền thừa chấn phát.
Nguyện hồi hướng công đức cho Phật pháp tăng huy, nhân sanh an lạc, tổ quốc được thanh bình thịnh vượng.
MINH MẪN
Trọng xuân Giáp Ngọ 2014
Đăng nhận xét